NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ TANG
LỄ
Phần thứ nhất
Lời thưa
|
Phận làm con, ai cũng muốn làm tròn đạo Hiếu. Công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ với con cái cao ngất như trời xanh, rộng mênh mông như biển cả. Cả đời
này, con cái không sao báo đáp trọn vẹn được. Một trong những việc báo hiếu đối
với cha mẹ là tổ chức tang lễ cha mẹ sao cho trọn vẹn.
Làm tốt việc Tang Lễ cho Cha Mẹ, là việc làm cho chính mình, cũng là nêu gương
cho con cháu noi theo.
Những điều cần biết về
Tang Lễ là tập sách mỏng, viết dưới dạng Cẩm
nang Gia đình. Khi lâm sự, xem các việc chính cần làm, thực hiện theo một
trình tự đã có. Từ khi qua đời đến lúc an táng có 13 việc chính, từ an táng đến cải táng có 6 việc chính. Đây là những việc không thể bỏ được.
Căn cứ vào Thọ Mai Gia Lễ và qua
thực tế việc Tang lễ hiện nay. Chúng tôi chọn lựa những nội dung cần thiết, lược
bỏ những điều phiền phức không phù hợp với thời đại mới. Làm vậy Tang lễ vừa đảm
bảo tính dân tộc, lại có nội dung Văn hóa mới.
Chúng tôi chọn nêu lại một số nội dung cũ của Thọ Mai Gia Lễ, độc giả tham
khảo để hiểu rõ hơn sự phức tạp của các việc làm ngày trước. Bây giờ bỏ đi là hợp
lý.
Nội dung cuốn sách chắc còn nhiều khiếm khuyết. Kính mong các độc giả, các
bậc thức giả, các vị cao niên chỉ giáo thêm. Xin chân thành cảm ơn.
Nguyễn Quý Phong
Chương
Thứ Nhất
*****
NÓI VỀ CÁI CHẾT
1-
SINH LÃO BỆNH TỬ, LÀ QUY LUẬT TỰ NHIÊN
TRONG
VÒNG ĐỜI NGƯỜI.
Người ta, ai cũng muốn được sống lâu trên cõi
đời này. Chẳng thế mà khi mừng thọ các cụ lên lão, ta thường dành những câu tốt
đẹp: “Thọ tỷ nam sơn壽比南山- thọ như núi Nam”. Nếu tuổi thọ không cao
được như núi Nam, thì ít ra cũng phải “Bách
tuế trường sinh百歲長生-
sống lâu trăm tuổi”. Ấy là chưa kể
các đấng bề trên, vẫn được mọi người tung hô: “muôn năm! vạn tuế!”. Đó cũng chỉ là những thành ngữ mang tính ước lệ.
Mặc dù hiện tại đã có một số người sống 100 tuổi, hoặc trên 100 tuổi. Nhưng điều
đó không phải là phổ biến.
Chuyện Ông Bành tổ sống 800 tuổi, chuyện các vị
Thánh Thần trường sinh bất lão; chỉ là sự gửi gắm ước muốn của con người, khi
mà thực tế cuộc sống không đạt được. Chẳng thế mà cả châu Âu, châu Á đều có câu
chuyện “Rắn gìa rắn lột”. Chuyện rằng:
Thuở
trời đất vừa được dựng nên, Trời muốn cho loài người đuợc bất tử bằng cách lột
xác, còn loài rắn tới già thì phải chết. Trời mới sai Thiên lôi xuống trần, và
dặn rằng khi gặp người, phải nói câu thần chú sau:
-
Người già người lột. Rắn già rắn tọt vào săng.
Thiên
lôi xuống trần, vừa đi vừa nhẩm thần chú của Trời; nhưng vì lơ đãng, đọc đi đọc
lại thế nào, khi xuống trần vừa gặp con người, thiên lôi lại đọc: “Rắn già rắn
lột. Người già người tọt vào săng”.
Vì
thế mà con rắn được lột xác, còn con người sinh ra, lớn lên, già, chết, rồi phải
cho vào săng, đem chôn!.
Đến
như Tần Thủy Hoàng, vì muốn có thuốc trường sinh nên vẫn bị lừa. Ông đã cấp
lương thảo, tiền bạc, thuyền bè cho bọn lang băm, vượt trùng dương đi tìm thuốc
trường sinh. Thuốc chẳng thấy đâu, chính ông lại bị chết trên đường tuần du, đến
nỗi xác phải ướp muối chở về kinh.
Ngày
nay nhờ sự tiến bộ của khoa học, tuổi thọ trung bình của con người ngày một
nâng cao. Trước cách mạng tháng tám, tuổi thọ trung bình của ta chỉ trên dưới bốn
mươi. Năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số, người
trên 65 tuổi đạt 7% dân số. Tốc độ già hóa dân số của Việt Nam, nhanh hàng đầu
Châu Á và là một trong năm quốc gia, có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới.
Đến năm 2049 người cao tuổi Việt Nam sẽ là 25%. Theo kết quả Điều tra dân số
năm 2014: Tuổi thọ trung bình của dân số nước ta là 73,2
tuổi, trong đó nam là 70,6 tuổi và nữ là 76,0 tuổi.
Ý
muốn trường sinh là chuyện của con người, nhưng quy luật tự nhiên là sự tồn tại
khách quan. Vòng đời người tuân theo quy luật: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Đây là điều
thuận lý tất yếu không thể tránh, cái gì đến tất phải đến. Bình thường ai rồi
cũng phải chết, trừ những cái chết bất đắc kỳ tử như tai nạn rủi ro, thiên tai,
trận mạc, bệnh hiểm nghèo…con người không tiên liệu được; hoặc những cái chết tự
tử vì thất vọng, bị dồn vào ngõ cụt không có lối ra.
Vẫn
biết Ông bà Cha mẹ “ra đi” lúc tuổi
già là đương nhiên, nhưng khi nó đến vẫn cứ bất ngờ hụt hẫng. Là nỗi đau khôn
cùng, sự mất mát lớn lao, nỗi trống vắng không sao khỏa lấp.
Làm
chu đáo tang lễ cho ông bà cha mẹ, trước hết là thể hiện lòng báo hiếu của con
cháu; cho nên đám tang, còn gọi là “Đám
Hiếu”. Làm tang lễ là việc làm của mình, cho chính mình. Người đã mất đâu
còn biết gì, trong khi người sống chịu bao áp lực và dư luận chi phối. Nếu con
cháu chúng ta, không có sự chuẩn bị chu toàn và thực hiện đầy đủ các bước trong
lễ tang, sẽ có nhiều thiếu sót lớn không sao sửa chữa được. Đến nỗi nhiều người
phải ân hận suốt đời, có khi còn mang tiếng là bất hiếu!
2-
NGƯỜI GIÀ CẦN CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT.
Thông
thường người cao tuổi hay nghĩ đến cái chết. Sẵn sàng đón đợi cái chết. Bằng chứng
là ở nông thôn, một số nơi còn chuẩn bị sẵn áo quan (quan tài) trong nhà khi các cụ còn khỏe mạnh. Áo quan đó còn gọi là
cỗ hậu (dùng nó về sau), có nơi còn gọi
là cỗ thọ, vì vậy đầu áo quan bao giờ
cũng khắc chữ “Thọ”, cũng là để đánh
dấu khi nhập quan.
Cái chết dưới cách nhìn chấp nhận một quy luật,
thì không có gì đáng sợ. Người theo một tôn giáo, càng nhẹ nhàng khi đối diện với
cái chết. Thiên chúa giáo coi cái chết là về với Chúa, với sự vĩnh hằng. Ta
sinh ra từ cát bụi, lại trở về cát bụi. Phật giáo coi cuộc đời là bể khổ trầm
luân, “sinh ký tử quy 生寄死歸, sống gửi thác về”. Cuộc
sống đời người chỉ là tạm bợ, khi chết mới thực sự được về nơi cực lạc viên mãn, siêu sinh tịnh độ.
Người
cao tuổi khi về già thường ốm đau luôn, nhiều người cảm nhận cái chết đến gần.
Cá biệt có người còn “bấm” được mình
sẽ chết vào một thời gian cụ thể. Bởi vậy cần thanh thản chuẩn bị cho cái chết
bằng một số việc làm sau:
a)
- Lập di chúc.
Thường
ta chưa có thói quen lập di chúc, ngày nay việc lập di chúc tương đối phổ biến.
Đây là một nét Văn hóa đẹp và cần thiết. Việc lập di chúc là thể hiện ý nguyện
định đoạt về tài sản, hoặc tâm nguyện của một người trước khi chết.
Theo
Bộ luật Dân sự, phần thừa kế, một bản di chúc hợp pháp là:
Về hình thức:
Được soạn thảo thành văn bản, có người làm chứng hoặc được UBND xã, phường, cơ
quan công chứng xác nhận. Nếu di chúc không có chứng thực, người lập di chúc phải
tự tay viết di chúc, theo nội dung quy định và ký tên. Nếu là di chúc miệng, phải
có hai người làm chứng. Hai người này ghi chép lời nội dung di chúc và phải ký
tên.
Về nội dung:
Phải ghi rõ tên, tuổi, địa chỉ người lập di chúc; cá nhân, tổ chức được hưởng
di sản; thực trạng tinh thần và sức khỏe của người lập di chúc; tài sản để lại
(phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di chúc); quyền và nghĩa vụ
của tổ chức và người nhận di sản, ngày tháng lập di chúc...
Bản
di chúc nói chung, ngoài việc thể hiện tính hợp pháp, thường còn chứa đựng tâm
tư, tình cảm của người để lại di sản. Nên bên cạnh việc định đoạt tài sản, người
lập di chúc còn nhắc nhở, căn dặn một số điều cho người hưởng di sản. Trong di
chúc có những điều dặn dò con cháu thực hiện di ngôn của mình.
Khi
sắp qua đời mới công bố di chúc. Trường hợp không có di chúc, con cháu phải hỏi
cho rõ ý muốn của người lâm chung. Người thân ghi chép đầy đủ dưới sự chứng
giám của các thành viên trong nhà hoặc người làm chứng, được ký tên hoặc điểm
chỉ chu đáo.
Có
thể mời luật sư lập di chúc và ủy quyền cho luật sư công bố di chúc, vào một thời
điểm được ghi trong di chúc.
(Tham
khảo thêm Bộ luật dân sự về lập di chúc)
b)
– Giải quyết những việc tồn đọng.
Đây
là một việc nhạy cảm và tế nhị. Ai biết được cụ thể cái chết của mình, mà đòi
giải quyết! Nhưng người già khi ốm đau, lượng thấy mình không qua khỏi, cần
thanh toán nợ nần hoặc cho con cháu biết mình còn nợ nần gì. Trả vay, vay trả cần
dứt điểm, kể cả những món nợ tinh thần, những uẩn khúc lâu nay chưa giải tỏa.
Lẽ
thường ai cũng sợ chết. Bởi chết là mất tất cả mọi thứ ta có, từ thân xác ta,
cho đến những người thân yêu của ta. Mất hết những gì ta phấn đấu, lao tâm khổ
tứ cả một đời mới có, khi chết không sao mang theo được.
Cái
quý hơn cả là thân xác ta, rồi cũng mất đi. Điều làm cho ta sợ hơn nữa là: Ta
không biết điều gì sẽ xẩy ra sau khi chết. Thiên đường hay địa ngục? Nỗi ám ảnh
cứ theo ta, và chỉ có ta mới biết phải tự sám
hối về những điều tốt xấu, mà ta đã làm khi sống trên cõi đời này…Liệu ta
có được siêu thoát hay bị trừng phạt?...
Bây
giờ tuổi thọ trung bình của Việt Nam đã vượt qua mốc “xưa nay hiếm”, các cụ đều trải nghiệm nhiều, đã tri thiên mệnh (知天命- biết mệnh trời), hiểu biết quy luật cuộc đời,
qua các cung bậc thăng trầm và nếm trải bao cay đắng ngọt bùi. Nhận ra mọi sự
bon chen, tranh quyền đoạt lợi, mánh mung mưu mẹo, chỉ hao tâm tổn trí. Chức trọng
quyền cao bổng lộc nhiều, tiền muôn bạc tỷ lắm; cũng chỉ là của phù vân, sáng đến
chiều đi không mang theo được.
Phải
sống làm sao, khi cái quan luận định (盖棺論定- đậy nắm quan tài mới khen chê hay dở) được
nhiều người thương nhớ và cắm trên bia mộ mình một lời tốt đẹp:
“Ở đây yên nghỉ một con người lương thiện!”.
Đó mới là sự tiếp nối vẻ vang truyền thống của dòng họ, của Tổ tiên ông bà. Và
cũng là gương sáng treo cao cho con cháu noi theo.
Hiện
tại các cụ lấy sự sống vui, sống khỏe, sống
có ích làm phương châm xử thế. Chẳng thế mà các cụ cao niên rất tâm đắc với
phương châm: "Sống khỏe, chết nhanh, ít của để dành, khi
chết được nhiều người thương nhớ". Mọi oán thù đều gạt bỏ
và quên đi. Người làm chủ bản thân, còn biết quên tuổi tác, hòa nhập với cuộc sống
cộng đồng, gần gũi tuổi trẻ. Nụ cười và ánh mắt trẻ thơ sẽ tiếp thêm nhựa sống
lạc quan yêu đời cho tuổi già, khi mãn chiều bóng xế! Biết quên bệnh tật, chấp
nhận để chung sống và tìm cách hạn chế không cho bệnh tật phát triển. Đó mới là
liều thuốc Trường sinh Bất lão hiệu nghiệm!
Làm
được vậy, sẽ là niềm Hạnh phúc an nhiên, thanh tao, tự tại… Vui vầy bên con
cháu, thả hồn vào cảnh sắc thiên nhiên. Điều kiện kinh tế ngày một nâng cao,
các cụ đều có thể:
“Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ
trăng lên”
Truyện Kiều –
Nguyễn Du
Như
vậy, khi đi vào cái chết được nhẹ nhàng. Con cháu cần hỏi thêm các cụ trước khi
lâm chung và hứa có trách nhiệm giải quyết, để cho các cụ ra đi được thanh thản.
Ngày trước người ta còn hỏi ý người sắp chết việc đặt tên thụy, tên hèm là gì;
để sau này khi cúng đọc cho đúng, hồn người chết về thụ hưởng, nên mới gọi là tên cúng cơm. Bây giờ điều này không mấy
ai làm. Hiện nay khấn cúng đều đọc tên khai sinh của người chết.
c)
– Đáp ứng nguyện vọng người sắp “ra đi”.
Những
người sắp “ra đi” thường có những yêu
cầu nào đó. Thèm ăn một món quà quê để nhớ lại những ngày tuổi ấu thơ (mặc dù
món ăn đó cần phải kiêng), thèm nhìn một khoảng trời xanh qua khung cửa sổ (có
thể gió lạnh lùa vào!)…muốn được gặp người này người kia… Kể cả “người tình cũ
một thời”… Nhất là khi sắp tắt hơi, một số người đòi hạ thổ, xuống đất lấy âm
khí cân bằng âm dương rồi mới chết.
Những
người ở quê ra tỉnh, biết mình sắp chết, đòi được “đưa” về quê nằm cạnh tổ tiên ông bà, kể cả những người xa
xứ cũng muốn được “lá rụng về cội”…
Con
cháu cũng không nên câu nệ, cần khắc phục khó khăn để đáp ứng những nguyện vọng
này trọn vẹn và chu đáo, trong điều kiện có thể.
3-
THẾ NÀO LÀ CHẾT?
Chết thông thường được xem là chấm dứt sự sống của một con người.
Định nghĩa cho sự chết, còn tùy thuộc vào ba quan điểm: y học, tôn giáo, và pháp luật.
Chúng ta không cần thiết đi sâu vào lĩnh vực này. Thông thường cần có sự xác nhận
của y học.
Trong y học, có nhiều định nghĩa khác nhau về cái chết. Ở phương Tây trước
đây, sự chết đã được gắn với tim và sau đó là phổi. Khi tim và phổi của một người
ngừng hoạt động, người đó được xem là đã chết. Về sau, não được đưa vào định
nghĩa. Năm 1963, điện não đồ (EEG) được phát minh, phương tiện này có khả năng
đo rất chính xác các dòng điện phát ra từ não. Nếu máy điện não đồ ghi nhận một
dòng điện bằng không (nói cách khác là một EEG phẳng) trong 36 giờ, người đó được
xem là đã chết.
Trong
đời thường, xưa nay vẫn cho rằng khi “tắt
thở” là chết. Thông thường người ta để những sợi tơ bông vào mũi xem còn thở
không. Thực ra có trường hợp não vẫn còn sống, nên mới có hiện tượng người chết
còn bật dậy, khi có con mèo chạy ngang. Ta gọi hiện tượng này là quỷ nhập tràng. Chính thế khi có người
chết phải nhốt mèo, nhốt chó lại.
Cái chết thường được gắn liền với một số biểu tượng. Ở nhiều nước
phương Đông, màu trắng là màu của tang chế; ngược lại, ở phương Tây, màu tang
là màu đen. Biểu tượng của cái chết là vị thần chết với bộ xương gớm ghiếc và
chiếc lưỡi hái kinh hãi.
Tập tục của hầu hết các nền văn hóa là khóc thương những người
thân yêu đã chết và để tang tưởng nhớ.
4 - SAU KHI CHẾT SẼ RA SAO?
Điều gì sẽ xảy ra đối với con người, trong và sau khi chết? linh hồn
có hay không? Câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng.
Những người theo chủ nghĩa vô thần, hoặc thuyết bất khả tri thì
tin rằng cái chết đặt dấu chấm hết cho ý thức.
Trái lại niềm tin vào một cái gì đó tiếp tục sau khi chết cũng phổ
biến từ xưa, mọi tôn giáo cho rằng có một thế giới của người chết (âm ty, âm phủ,
cõi âm), hoặc tái sinh, đầu thai vào kiếp sau. Đó là sự an ủi có liên hệ tới
cái chết của những người thân yêu và viễn cảnh về cái chết của chính bản thân mỗi
người đang sống.
Nỗi lo sợ về địa ngục, trải qua “thập đại diêm vương!”, cũng như những hệ quả đen tối khác, khiến
cho cái chết trở nên quái ác hơn. Nỗi ưu tư của con người về cái chết ở nơi địa
ngục hay chốn Thiên đường, cũng là một động lực quan trọng, thúc đẩy sự phát
triển của các tôn giáo.
Hiện nay niềm tin vào một Thế giới TÂM LINH không phải là ít. Điều
đó đặt ra cho khoa học cần tìm một lời giải đáp. Trước một thực tế, ngày càng
có nhiều nhà ngoại cảm nhìn được thế
giới bên kia, nói chuyện được với người
âm. Qua kiểm chứng có đúng có sai. Đây là vấn đề nhạy cảm, chúng ta cần tỉnh
táo! Bởi lẽ trong cơ chế thị trường, dưới sức hút ma lực của đồng tiền, đã xuất
hiện một số nhà ngoại cảm dởm lừa lọc, vô lương tâm!
Phải bình tâm sáng suốt, tránh được sự mù quáng mê muội không đáng
có!
5 – XỬ LÝ XÁC NGƯỜI CHẾT.
Người chết được thực hiện một số nghi thức tống táng, thông thường
nhất là chôn trong mộ (một hố đào vào lòng đất gọi là huyệt mộ). Ngoài ra còn
táng trong quan ngoài quách, hầm mộ, mộ đá. Mộ rất đa dạng, từ đơn giản như một
gò, ụ đất đến vô số các kiến trúc lăng tẩm khác trên mặt đất.
Ở Tây Tạng, có một phương pháp gọi là lộ thiên táng hoặc điểu táng,
đem xác người chết, đặt trên núi cao làm mồi cho các loài chim ăn thịt, họ cho
rằng chim ăn, sẽ chuyên chở linh hồn về chốn thiên đường.
Ở một số nước, người ta lại cố gắng làm chậm quá trình phân hủy của
xác trước tang lễ. Thậm chí có thể làm chậm quá trình phân hủy sau khi chôn cất,
như ướp xác hoặc tạo các mô mi.
Nhiều nền văn hóa khác nhau, có nhiều tập quán mai táng khác nhau.
Trong một số các làng chài hoặc lực lượng hải quân, người ta còn thủy táng (đưa xác chết xuống sông hoặc
biển). Một số vùng miền núi, người ta treo quan tài lên cây, hoặc trong hang động
như ở hang Lũng Mu - Hồi Xuân - Thanh hóa trước đây.
Một cách mai táng mới là “mai
táng sinh thái”. Làm đông xác ở nhiệt độ rất thấp, sau đó tán thành bột, rồi
làm khô ở nhiệt độ lạnh.
Ngày nay việc mai táng bằng phương pháp hỏa táng, được nhiều người chấp nhận. Đây là phương pháp tốt nhất,
giải quyết về vệ sinh môi trường và đất nghĩa địa. Rồi đến lúc mỗi tỉnh cần có
một lò hỏa táng.
Gần đây còn có ý tưởng “vũ
trụ táng”: dùng tên lửa đưa một phần tro cốt vào không gian.
Nhiều người đã hiến toàn bộ, hoặc một phần xác cho khoa học (nổi
tiếng nhất là Einstein). Có thể hiến các bộ phận như thận, giác mạc…để cấy ghép,
thay thế cứu sống bệnh nhân. Nhiều nhất
là hiến xác cho các trường y, để phục vụ nghiên cứu và giảng dạy môn giải phẫu.
Việc mai táng được thực hiện bởi dân làng, các công ty mai táng
chuyên nghiệp, hoặc có sự tham gia của bệnh viện, tổ chức tôn giáo, hội từ thiện
v.v.
Mồ mả thường được tập hợp trong một khu đất gọi là nghĩa trang
(nghĩa địa).
Đạo lý truyền thống của người Việt quan niệm “nghĩa tử là nghĩa tận”. Bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi người ta
đã chết, vì chết là dứt nợ trần gian.
Chính vậy người cao tuổi hiện nay rất tâm đắc với phương châm sống: Quên hận thù!
Quan niệm của nhà Phật là “sinh
ký tử quy! sống gửi, thác về”,
xem cuộc sống trên dương thế chỉ là cõi trọ tạm bợ, chết không phải là hết; chết
là về để khởi đầu cho một cuộc sống mới, ở thế giới mới.
Tín ngưỡng dân gian tin vào linh hồn, khi chết linh hồn thoát khỏi
xác. Người tu nhân tích đức tốt, linh hồn được siêu sinh tịnh độ về miền cực lạc.
Người còn nặng nợ trần gian, linh hồn sống ở cõi âm. Cả hai loại cũng sinh hoạt
như ở dương thế. Do đó có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, đầy tớ, áo quần,
tiền, đô la âm phủ v.v. để chu cấp cho người chết được đầy đủ, vì trần sao âm vậy!
Rằm tháng bảy âm lịch, trùng với lễ Vu lan của Phật giáo, là ngày xóa tội vong
nhân, người ta cúng cô hồn để bố thí thức ăn cho những vong hồn lạc loài không
chỗ trú.
Một quan niệm cổ truyền nữa là người chết cần được “mồ yên mả đẹp”, việc “động mồ động mả” có thể ảnh hưởng đến sự
nghiệp của con cháu. Ai cũng muốn tìm đất tốt táng cho cha mẹ, để con cháu được
phát lộc! Vẫn còn đó những câu chuyện được Thầy địa lý Tả Ao tìm đất tốt, táng
mộ cụ Tổ nên con cháu phát lộc, được làm quan to!
Tùy địa vị xã hội và nhân cách của từng người và từng cái chết cụ
thể; nhân dân ta thể hiện thái độ, tình cảm đối với cái chết thông qua ngôn từ
khá thú vị:
Tỏ lòng Kính trọng dùng
các từ: từ trần, khuất núi, qua đời, mất, ra đi, yên nghỉ, hi sinh, ngã xuống,
nằm xuống, từ giã, đền nợ nước trả thù nhà, trút hơi thở cuối cùng. Nói về vua
chúa: băng hà.
Để Kiêng kị dùng các từ:
vĩnh biệt, trăm tuổi già, ngủ, đi (ra đi), lìa đời, sang bên kia thế giới, tim
đã ngừng đập…
Người theo Tôn giáo dùng
các từ: lâm chung, về với Chúa, viên tịch, quy tiên, hồn lìa khỏi xác, hóa kiếp,
mãn phần, về miền cực lạc, trở về cát bụi…
Biểu hiện Trung lập dùng
các từ: chết, thác, đi bán muối, qua đời, tuyệt mệnh (mạng), tử, mất...
Nói về Thân phận dùng
các từ: lìa đời, im hơi lặng tiếng, nhắm mắt xuôi tay, về với đất, chầu ông bà
ông vải, chầu trời, chầu tổ tiên, chầu Diêm vương, mất mạng…
Thái độ Khinh miệt dùng
các từ: toi mạng, rồi đời, xong đời, đền tội, ngoẻo, ngủm, ngủm củ tỏi, tiêu,
nát gáo, ăn đất, ăn giun, đi đứt...
Còn nữa…
Xin trao đổi qua:
Email: quyphong2007@gmail.com
ĐT: 0981.731.624
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét