Phần Thứ Hai
Nội dung Văn bia: "Trùng tu Phượng Hoàng Thị Kiều bi"
Nội dung Văn bia: "Trùng tu Phượng Hoàng Thị Kiều bi"
A- Mặt trước bia:
- Phần chữ Hán:
恭惟
弘定拾五年柒月拾弍日旦伐蠲恊穀徠起鳩工離娄之明以督其绳公輸之巧以削其墨經之营之不浹旬而未雨之龍止齎之虹已橫跨於波上矣水由地中行人從橋上達原本府市玆施三寳致天下之人聚天下之貨商賈之居行共便貨財之貿易皆通举欣欣然誾誾然於帝日帝天之下咸熙熙焉皡皡焉於王途王路之中會其有極歸于有極普荷吾。
帝王萬萬年建極錫福之功大矣是則斯橋之作斯市之施其及人之功之德顧可量耶以此河沙慶善于祿百福于其身于其子孫穆穆皇皇绵绵延延祚胤处处基圖鞏固其億萬年無彊之休乎。
銘曰:
佛大會主。
简揮皇帝皇太后鄭氏玉楨。
世宗毅皇帝第壹公主棃氏玉貪。
简揮皇帝第壹公主棃氏玉祥。
简揮皇帝第弍皇子棃維正。
简揮皇帝第弎皇子棃維良。
世宗毅皇帝第弍嬪武氏玉貴(建昌府真定縣仁黄社)。
简揮皇帝嬪裴氏玉園(常信府上福縣仁賢社)。
弌功德
世宗毅皇帝第弍嬪棃氏玉篮号妙宗。
阮勃(指揮使署衞軍義澤侯惟精社)夫人棃氏森。
杜焉(殿前都校點司左校點参督力四衞軍務事坚義候惟壹社)夫人棃氏楊。
阮奠安(都指楎)夫人楊氏棬。
阮曰智(都指楎使朝铁候)夫人吴氏奮黄氏憲。
何有畧(指楎)夫人棃氏貪杜氏缘男子何有福何有德。
永祚萬萬年之九季春節榖日。
奉旨傳書寫錦衞断事西嶺伯棃明福(蓝山鄉廣施社)乙未科進士出身翊運賛洽功臣特進金紫荣祿大夫礼部尚書蒹翰林院侍讀掌翰林院事東閣學士少保芳蘭候慈東雲恬阮實樸甫撰。
諳曉玉石易局副阮文明局副阮曰當(才良)阮柳(嘉…縣…邦…社) 鐫。
Phiên âm:
TRÙNG TU PHƯỢNG HOÀNG THỊ KIỀU BI
Trùng tu Phượng Hoàng (1) kiều thi bản phủ thị
Ngưu thị vi Tam Bảo (2) bi, minh.
Thường vị thủy thượng
vi lương, sở dĩ độ hành nhân chi lai vãng; nhật trung vi thị, sở dĩ thông thiên
hạ chi hóa tài.
Duy thử Phượng Hoàng
kiều, bản phủ thị, giới tại Vĩnh Phúc (3), Thuần Hựu (4) chi gian, thổ cao sảng khải, địa quảng thản bình, hành khách chi sở
vãng lai, hóa tài chi sở mậu dịch, chân Thang Mộc (5) ấp trung, đại khứ, đại lai, đại đô hội xứ dã.
Nhĩ nhân tinh sương lũ
khuyết, phong cảnh đốn thù, thời nhân bất năng vô yến mạch, quỷ quì chi hám.
Cung duy:
Thế Tông nghị Hoàng đế
(6) lão Hoàng
Hoàng Thái Hậu dĩ thiên hạ mẫu vi Phật trung thánh tâm, phúc địa, mục từ thiên
phát vô lượng chi tâm, chủng tương lai chi phúc; đương thời đạt quan cập chư
thiện tín nhân hàm nguyện vi chi trợ phí, khuê tiền yêu đới, di nhiên nhất xá,
kinh mộc, côn ngõa, biền nhiên tứ lai nãi ư.
Hoằng Định (7) thập ngũ niên thất nguyệt
thập nhị nhật đán (8), phạt quyên hiệp
cốc lai khởi cưu công, Ly lâu (9) chi
minh dĩ đốc kỳ thằng, Công Thâu (10)
chi xảo dĩ tước kỳ mặc, kinh chi, doanh chi, bất tiếp tuần nhi vị vũ chi long,
chỉ tê chi hồng dĩ hoành khóa ư ba thượng hĩ.
Thủy do địa trung
hành, nhân tòng kiều thượng đạt, nguyên bản phủ thị tư thi Tam Bảo, trí thiên hạ
chi nhân, tụ thiên hạ chi hóa; thương cổ chi cư, hành cộng tiện, hóa tài chi mậu
dịch giai thông, cử hân hân nhiên, ngân ngân nhiên ư đế nhật đế thiên chi hạ,
hàm hi hi yên, hạo hạo yên, ư vương đồ vương lộ chi trung hội kì hữu cực quy vu
hữu cực phổ hạ ngô.
Đế vương vạn vạn niên
kiến cực tích phúc chi công đại hĩ. Thị tắc tư kiều chi tác, tư thị chi thi, kỳ
cập nhân chi công đức, cố khả lượng da! Dĩ thử hà sa khánh thiện vu lộc, bách
phúc vu kỳ thân, vu kỳ tử tôn, mục mục, hoàng hoàng, miên miên, diên diên, tô dận,
xứ xứ cơ đồ củng cố, kỳ ức vạn niên vô cương chi hưu hồ.
Minh
(11) viết:
Đế hương phúc địa. Phượng
Hoàng kiều danh. Quy mô hùng lệ. Chế độ khôi hoành. Vân phi họa đống. Vũ quyển
duy lương. Đống phù đồ tộ. Bàn điện dao kinh. Nghĩa thủ phệ hạp. Thị hội nhật
trung. Hóa tài mậu dịch. Hữu vô tương thông. Hựu thi Tam Bảo. Dĩ chủng âm công.
Nhân dân mông huệ. Vĩnh viễn vô cùng.
Phật Đại Hội Chủ.
Thời
Thế Tông nghị Hoàng đế
minh phi, lão Hoàng Hoàng Thái Hậu Nguyễn Thị Minh Thụy (Thiệu Thiên phủ, Thụy
Nguyên huyện, Lam Sơn hương)
Giản huy Hoàng đế (12) Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị
Ngọc Trinh.
Thế Tông nghị Hoàng đế,
đệ nhất Công chúa Lê Thị Ngọc Thơm.
Giản huy Hoàng đế đệ
nhất Công chúa Lê Thị Ngọc Tường.
Giản huy Hoàng đế đệ
nhị Hoàng tử Lê Duy Chính.
Giản huy Hoàng đế đệ
tam Hoàng tử Lê Duy Lương.
Thế Tông nghị Hoàng đế
đệ nhị tần Vũ Thị Ngọc Quý (Kiến Xương phủ,Chân Định huyện, Nhân Hoàng xã)
Giản huy Hoàng đế tần
Bùi Thị Ngọc Viên (Thường Tín phủ, Thượng Phúc huyện, Nhân Hiền xã).
Nhất công đức:
Thế Tông nghị Hoàng đế
đệ nhị tần Lê Thị Ngọc Lam, hiệu Diệu Tông.
Nguyễn Bột (Chỉ huy sứ,
thự vệ quân, nghĩa trạch hầu, Duy tinh xã), phu nhân Lê Thị Sâm.
Đỗ Yên (Điện tiền đô hiệu
điểm ty, tả hiệu điểm, tham đốc, hiệu lực tứ vệ quân vụ sự, kiên nghĩa hầu, Duy
Nhất xã) phu nhân Lê Thị Dương.
Nguyễn Điện An (Đô chỉ
huy) phu nhân Dương Thị Khuyên.
Nguyễn Viết Trí (Đô chỉ
huy sứ, Triều thiết hầu) phu nhân Ngô Thị Phấn, Hoàng Thị Hiến.
Hà Hữu Lược (Chỉ huy)
phu nhân Lê Thị Thơm, Đỗ Thị Duyên; nam tử Hà Hữu Phúc, Hà Hữu Đức.
Vĩnh Tộ (13) vạn vạn niên chi cửu,
quý xuân tiết, cốc nhật. Phụng chỉ truyền thư, Tả cấm vệ đoán sự, Tây lĩnh bá
Lê Minh Phúc (Lam Sơn hương Quảng Thi xã).
Ất Mùi khoa Tiến sĩ xuất
thân, Dực vận tán hiệp công thần, đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Lễ bộ Thượng
thư kiêm Hàn Lâm viện thị độc, Chưởng Hàn lâm viện sự, Đông các học sĩ. Thiếu Bảo
Phương lan hầu, Từ Đông, Vân Điềm: Nguyễn Thực phác phủ soạn.
Am hiểu Ngọc thạch dịch
cục, Cục phó Nguyễn Văn Minh, Cục phó Nguyễn Viết Đương tài lương Nguyễn Liễu
(gia …huyện…bang…xã). Tuyên.
Chú thích nội dung mặt
trước
1 - Phượng
Hoàng:
Con chim trong thần thoại của người phương Đông, ngự trị trên tất cả các loài
chim khác. Một linh vật trong tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng.
2 - Tam Bảo: Là ba thứ quý báu trong tự
nhiên.
-
Tam bảo của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng.
-
Tam bảo của Trời là: Nhật, Nguyệt, Tinh.(Mặt trời, Mặt trăng, Sao)
-
Tam bảo của Đất: Thủy, Hỏa, Phong. (Nước, Lửa, Gió)
-
Tam bảo của Người là: Tinh, Khí, Thần.
Tinh
là chất tinh túy của thể xác do máu huyết tạo ra. Nó tích tụ nơi cơ quan sinh dục
và nhờ nó mà con người di truyền nòi giống.
Nơi
người nam, Tinh là chất tinh trùng; nơi người nữ, Tinh là noãn bào được tạo
thành trong buồng trứng.
Nhờ
có Tinh mà con người có được sức khỏe và di truyền nòi giống. Cho nên, nếu con
người dâm dục quá độ thì phải bị tổn Tinh, sức khỏe hao mòn, bệnh tật xảy đến.
Do
đó, cái Tinh ấy được gọi là Chân Tinh.
Khí
là chất hơi lưu thông theo máu huyết, tạo thành sức mạnh trong cơ thể con người,
nên được gọi là Khí chất hay Khí lực. Đó là dưỡng khí trong hơi thở và các chất
bổ dưỡng do thức ăn vào trong dạ dày biến hóa ra. Cho nên khi đói, thân xác bải
hoải như không còn hơi sức nào hết.
Người
mà ham mê danh vọng, phú quí vinh hoa thì phải tính toán trăm mưu ngàn chước,
làm việc quá sức, hao mòn thân thể, khí lực suy yếu, tức là bị tản Khí.
Thần
là trí não. Khôn ngoan sáng suốt hiểu biết của con người. Nó có được là do bộ
óc, nên gọi là Trí óc hay Trí não.
Não
bộ là của thể xác, nhưng sự hiểu biết là của chân thần. Não bộ được nuôi dưỡng
đầy đủ khỏe mạnh thì sự thông minh hiểu biết tăng lên. Khi thể xác chết, bộ óc
chết theo, nhưng cái trí hiểu biết vẫn không mất vì nó là của chân thần.
3 - Vĩnh Phúc. Địa
danh xưa là đất Hoằng Hóa.
4 - Thuần Hựu:
Địa danh xưa là Hậu Lộc.
5 Đất
Thang Mộc: vùng
đất (thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc đất công làng xã) do các vua chúa phong
thưởng.
6 - Thế
Tông Nghị Hoàng Đế: Tên húy là Lê Duy Đàm (1567-1599), con thứ năm của Lê Anh Tông, ở ngôi 27
năm (1573 – 1599), thọ 33 tuổi. Vua thứ tư nhà Hậu Lê thời Trung Hưng.
Theo Văn bia: Hoàng Thái Hậu Nguyễn
Thị Minh Thụy là bà cố nội của vua Thế Tông Nghị Hoàng đế, như vậy bà là vợ vua Lê Trung Tông (1535 – 1556).
7
- Năm Hoằng Định thứ 15: Là năm Ất
Mão 1615, thuộc thời vua Lê Kính Tông.
8
- Khởi công ngày 12 tháng 7: Như vậy
các vị tiền nhân ngày trước không kiêng làm việc lớn trong tháng 7 như bây giờ.
9 - Cung Ly Lâu: Cung điện đẹp ở phía Nam
trong cung.
10
– Công Thâu: Tên ông là Ban, người nước
Lỗ Trung quốc. Người thầy vĩ đại về kiến trúc và nghề mộc. Hiện có thước Lỗ Ban
dùng trong xây dựng
11
- Minh銘: Tên một thể
văn. Bài minh thường để tự răn mình, hoặc khắc chữ vào đồ vật, ghi chép
công đức. Ngày xưa khắc vào chuông, đỉnh, bia.
12 - Giản huy
Hoàng đế: Là Thụy hiệu của vua Lê Kính Tông (1599
– 1619)
13
- Vĩnh Tộ thứ chín: Niên hiệu vua Lê
Thần Tông năm 1628
Bản
dịch:
Bia ghi về việc trùng tu
Cầu và Chợ Phượng Hoàng.
Đưa cầu và chợ Phủ
(nguyên là chợ trâu) lên làm cầu và chợ Tam bảo. Khắc vào bia kèm bài minh
Sách xưa dạy rằng: Trên sông thì bắc cầu, chính là để giúp người
dân qua lại; ban ngày họp chợ chính là để cho của cải vật dùng được trao đổi
thông suốt.
Xét về cầu Phượng Hoàng và chợ của Phủ ta, ở vào giữa khoảng hai
huyện Vĩnh Phúc và Thuần Hựu; nền đất cao ráo, bằng phẳng là nơi khách bốn
phương qua lại, nơi của cải hàng hóa buôn bán trao đổi; thật đúng là nơi đến đã
lớn, nơi về lại to; là nơi đại đô hội của đất Thang Mộc vậy!
Gần đây, do hội trời vận đất đổi thay, phong cảnh càng sai dời
khác trước; người đời không thể không ngậm ngùi cảm động như chim én bay trước
ruộng lúa mạch, như quỷ thiêng trước chùm hoa quỳ.
Kính nghĩ rằng:
Đức vua Thế Tông Nghị Hoàng đế có bà mẹ già Hoàng Hoàng Thái Hậu,
là ngôi mẹ của dân nước; lấy lòng Phật làm lòng mình; nẩy lên lòng mở lượng to
lớn giúp dân, vun trồng phúc lớn cho mai sau; rồi các quan lớn trong Triều cùng
các vị thiện nam tín nữ hăng hái nhận đóng góp phí tổn. Tiền lương bạc túi,
thanh thản đóng góp cho việc lợi ích chung; rồi hô một tiếng, gỗ súc đá tảng
ngói gạch chở về kìn kìn, bốn phương dồn lại.
Đến năm Hoằng Định thứ 15, sớm ngày 12 tháng 7 bắt đầu đón thợ mộc,
thợ nề; lấy cái tài hoa lỗi lạc của Ly Lâu để làm chuẩn mực, lấy tài khéo léo
tay nghề của công Thâu Ban làm thước, rồi dựng lên nhấc lên chỉ chưa đầy một tuần
mà Rồng đã thôi mưa, cầu vồng mống cụt đã ngang nhiên bắc lên trên dòng nước
sóng bạc rồi vậy.
Thế là nước theo mạch đất mà chảy xuôi, người nhờ cầu mà qua lại,
chợ Phủ ta mang tên thành chợ Tam Bảo. Chính là:
Người thiên hạ qua lại. Của thiên hạ tụ tập. Buôn bán hàng hóa ùn
về. Việc mậu dịch dễ dàng. Mọi người hớn hở, dân chúng náo nhiệt ở ngay dưới trời
vua đất chúa, vui vẻ ca hát ở đường cái rộng của vua; tụ tập được cái gì là vô cực đến cái hữu cực (ít đến nhiều,
cái thiếu đến đủ) Tất cả đều nhớ ơn cao sâu của đức Vua ta vạn vạn năm dài lâu.
Công lao thật là vô cùng to lớn, lớn lắm vậy!
Thế là việc làm cầu, việc xây dựng chợ, công đức tỏa đến, thấm đến
vô lượng vô biên đó! Lấy cát sông Hằng mà đếm cũng không hết phúc lộc trên ban
cho dân, ban cho thân mình, ban cho con cháu: dày dặn, to lớn, xa xôi, dài mãi
cơ đồ vua ta vững bền ức vạn năm, vô biên vô cương, không sao tả xiết.
Minh rằng:
Làng Vua đất phúc
Phượng Hoàng tên cầu
Quy mô hùng lệ
Chế độ lớn lao
Mây bay cột vẽ
Mưa tạnh sáng sao
Rường cây phúc cả
Bàn điện kinh giao
Trừ bỏ gián cách
Chợ họp giữa ngày
Của cải trao đổi
Có không chuyển thay
Dựng nên Tam Bảo
Phúc xưa cao dày
Nhân dân đội đức
Giằng giặc tràn đầy
Phật đại hội chủ
Lúc này là:
Vua Thế Tông nghị Hoàng đế có bà cụ nội là minh
phi lão Hoàng Hoàng Thái Hậu, tên là Nguyễn Thị Minh Thụy (phủ Thiệu Thiên, huyện
Thụy Nguyên, hương Lam Sơn)
Giản huy Hoàng đế bà Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh
Công chúa thứ nhất tên là Lê Thị Ngọc Thơm là con vua Thế Tông nghị
Hoàng đế.
Giản huy Hoàng đế công chúa thứ nhất tên là Lê Thị Ngọc Tường;
Hoàng tử thứ hai là Lê Duy Chính, Hoàng tử thứ ba là Lê Duy Lương.
Bà tần thứ hai là Vũ Thị Ngọc Quý của vua Thế Tông nghị Hoàng đế
(phủ Kiến Xương, huyện Chân Định Nhân hoàng xã)
Bà tần của giản huy Hoàng đế là Bùi Thị Ngọc (phủ Thường Tín, huyện
Thượng Phúc, xã Nhân Hiền)
Ghi công đức góp công xây cầu dựng chợ.
Bà tần thứ hai của vua Thế Tông là Lê Thị Ngọc Lam hiệu Diệu Tông.
Nguyễn Bột chỉ huy sứ, nghĩa trạch hầu xã Duy Tinh vợ là Lê Thị
Sâm.
Bà vợ ông Đỗ Yên là Lê Thị Đương (Kiến nghĩa hầu, xã Duy Nhất).
Bà vợ ông Nguyễn Diên An là Dương Thị Quyên
Bà Ngô Thị Phấn, Hoàng Thị Hiến vợ ông Nguyễn Viết Trí làm đô chỉ
huy sứ triều thiết hầu.
Ông Hà Hữu Lược vợ là Lê Thị Thơm, Đỗ Thị Duyên, con trai là Hà Hữu
Phúc, Hà Hữu Dực.
Năm Thứ chín của đời Vĩnh Tộ muôn muôn năm, tháng cuối xuân ngày tốt
vâng chỉ nhà vua truyền cho viết bia là cẩm y vệ đoán sự tây lĩnh bá Lê Minh
Phúc (hương Lam Sơn xã Quảng Thi)
Ất Mùi khoa tiến sĩ xuất thân, Dực vận Tán công thần, đặc tiền Kim
tử vinh lộc đại phu, Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị độc, coi giữ công
việc của viện Hàn Lâm, Đông các học sĩ thiếu bảo Phương Lan hầu, Từ Đông, Vân
Điềm là Nguyễn Thực thác phủ soạn bài bia và minh này.
Người khắc chữ vào bia:
Cục phó coi về đá và ngọc Nguyễn Văn Minh.
Cục phó Nguyễn Viết Đương (Tài lương) Nguyễn Liễu (gia…huyện…bang
xã)
Cụ Lê Văn Uông dịch năm 1995
VỀ VIỆC DỊCH VĂN BIA
Mặt trước Bia có nhiều cách diễn đạt, nhưng về cơ bản vẫn nêu lý
do việc trùng tu cầu và chợ. Bản của cụ Lê Văn Uông dịch là bản chính.
Để rộng đường tham khảo, chúng tôi giới thiệu thêm hai bản:
1 – Bản dịch của Cụ Lê Văn Quýnh chỉ có phần nội dung đầu. Còn phần
sau cụ không dịch vì chỉ ghi chép tên và địa chỉ người công đức tiền của.
2 – Bản dịch của Nguyễn Quý Phong cố gắng diễn đạt theo văn phong
mới để người đọc dễ tiếp cận.
1 - Bản dịch của
cụ Lê Văn Quýnh:
BIA TRÙNG TU CHỢ, CẦU PHƯỢNG
HOÀNG
Bia ghi việc trùng tu
cầu Phượng Hoàng, thi công chợ Phủ - chợ trâu thành chợ Tam Bảo.
Thường nói rằng: trên sông phải bắc cầu cho người qua lại, hàng
ngày phải có chợ để giao lưu hàng hóa trong thiên hạ. Do đó cầu Phượng Hoàng,
chợ bản phủ thuộc xã Vĩnh phú huyện Thuần hựu; địa thế cao ráo rộng rãi, hành
khách qua lại, hóa tài lưu thông, thật là ấp Thang mộc. Đất đại đô hội rất thuận
lợi cho việc qua lại, giao dịch buôn bán.
Chính do đặc thù của phong cảnh trên, nên những người có nhiệt tâm
đương thời không thể bỏ qua.
Do đó: Bà lão Hoàng Hoàng Thái hậu của vua Thế Tông Nghị Hoàng đế,
vì thiên hạ vô vi; với thánh tâm, đã phát hằng tâm vô lượng, đứng ra xây dựng
các công trình trên, đồng thời đã động viên được nhiều quan chức trong triều
đình, cũng như trong cung thất cảm nguyện, bỏ tiền của thắt lưng buộc bụng dành
dụm được ra giúp đỡ xây dựng.
Vào năm Hoằng Định thứ 15, tháng 7, ngày 12 khởi công xây dựng.
Trong thời gian xây dựng tuy có khó khăn, phức tạp. Nhưng do nhiệt tình và tài
nghệ kỹ thuật, nên cầu đã được hình thành đúng quy cách, bảo đảm kỹ thuật, mỹ
thuật. Từ đó việc qua lại càng thêm thuận tiện.
Chợ được sửa sang mở rộng khiến việc giao lưu, trao đổi hàng hóa
ngày càng phát triển; lòng người vui mừng phấn khởi với ngọc đồ, vương lộ.
Đức vua ta muôn muôn năm đã ban phúc rất lớn; bắc cầu mở chợ đó là
phúc đẳng hà sa không lường hết được.
Mong đức vua và những người có công sức xây dựng cầu chợ, hưởng hạnh
phúc cho bản thân và cho con cháu đời đời.
Mục mục, hoàng hoàng, cẩm cẩm, duyên duyên hàng ức vạn niên không
dứt.
Minh rằng:
Quê vua đất tốt.
Xây cầu Phượng Hoàng.
Quy mô vững đẹp.
Nhịp độ hài hòa.
Đục đẽo tinh xảo.
Công phu tạo thành.
Gió mưa chẳng sợ.
Lụt lội không sờn.
Tiện bề qua lại.
Không phải lụy đò.
Hằng ngày họp chợ.
Trao đổi hóa tài.
Dựng chợ Tam Bảo.
Vun trồng âm công.
Nhân dân nhớ ơn.
Mãi mãi không cùng.
(Bản dịch của cụ Lê Văn Quýnh chỉ có đến đây)
2 - Bản dịch của
Nguyễn Quý Phong
Bia ghi việc trùng tu
Chợ và Cầu Phượng Hoàng.
(Đổi tên thành cầu Phượng
Hoàng và chợ trâu bò thành chợ Tam Bảo. Bia và bài Minh)
Lẽ thường, qua sông thì bắc cầu, để giúp người dân đi lại; ban
ngày họp chợ để cho của cải trong thiên hạ được lưu thông trao đổi.
Cầu Phượng Hoàng và chợ của Phủ ta, ở vào giữa Vĩnh Phúc và Thuần
Hựu; nền đất cao ráo sáng sủa, bằng phẳng; là nơi khách qua lại, nơi của cải
hàng hóa buôn bán trao đổi; đúng là nơi đến đã lớn, nơi về lại to, nơi đại đô hội
của đất Thang Mộc vậy!
Gần đây, thời vận luôn đổi thay, phong cảnh càng khác trước; người
đời không thể không động lòng, như chim én trước ruộng lúa mạch, như quỷ thiêng
trước chùm hoa quỳ.
Cung kính nghĩ rằng:
Bà cố nội của vua Thế Tông Nghị Hoàng đế là ngôi mẹ của thiên hạ;
lấy tâm Thánh Phật làm lòng mình; vun trồng phúc lớn cho mai sau, mở lượng to lớn
giúp dân, cùng các quan lớn trong Triều và các vị thiện nam tín nữ hăng hái nhận
đóng góp phí tổn. Tiền lưng bạc túi, vui vẻ giúp cho việc lợi ích chung. Rồi qua
một đêm, gỗ đá gạch ngói bốn phương cùng chở về.
Sáng ngày 12 tháng 7 niên hiệu Hoằng Định thứ 15, đã dọn sạch mặt
bằng, rồi đón các toán thợ. Lấy mẫu đẹp của cung Ly Lâu làm chuẩn mực, chọn thợ
có tay nghề khéo léo như Lỗ Ban, rồi sửa sang dựng lên nhanh chóng. Chưa đầy mười
ngày mà Rồng đã thôi mưa, cầu vồng đã bắc ngang trên dòng sóng bạc vậy.
Thế là nước theo mạch đất mà chảy xuôi, người vui mừng có cầu qua
lại. Chợ Phủ ta nay thành chợ Tam Bảo. Đúng là: Người thiên hạ sum họp. Hàng
hóa dồn về. Buôn bán tấp nập. Thuận lợi cho việc lưu thông. Mọi người hớn hở,
dân chúng náo nhiệt, vui vẻ dưới trời vua đất chúa, bình an giữa đường rộng của
nhà vua. Hội tụ được rộng khắp, từ cái ít đến cái nhiều, cái thiếu đến cái đủ.
Tất cả đều nhờ ơn cao sâu của đức Vua ban phúc cho ta vạn vạn năm dài lâu. Công
lao thật vô cùng to lớn lắm!
Thế là việc làm cầu, xây dựng chợ, công đức ấy tỏa ra, thấm đượm đến
vô lượng vô biên vậy! Lấy cát sông mà đếm cũng không hết phúc lộc trên ban cho
dân, cho mình, cho con cháu: dày dặn, to lớn, liên tiếp, lâu dài. Các đời nối
tiếp nhau thêm bền chặt, nhớ mãi hàng vạn năm không bao giờ quên!
Minh rằng:
Làng Vua đất phúc
Phượng Hoàng tên cầu
Quy mô hoành tráng
Dáng vẻ to cao
Mây bay cột vẽ
Mưa tạnh sáng trong
Phúc lành rường cột
Bàn ngọc vững bền
Thuận theo lệ luật
Chợ họp giữa ngày
Hàng hóa trao đổi
Có, không chuyển luân
Dựng nên Tam Bảo
Rộng khắp công lao
Nhân dân đội ơn
Vĩnh viễn lâu dài
Lớn lao ơn Phật.
Lúc này:
Bà cụ nội Vua Thế Tông nghị Hoàng đế là
minh phi Nguyễn Thị Minh Thụy (làng Lam sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu
Thiên)
Bà Trịnh Thị Ngọc Trinh là mẹ của vua Giản
huy Hoàng đế.
Bà Lê Thị Ngọc Thơm là công chúa thứ nhất
của vua Thế Tông nghị Hoàng đế.
Bà Lê Thị Ngọc Tường công chúa thứ nhất của
vua Giản huy Hoàng đế; Hoàng tử thứ hai là Lê Duy Chính, Hoàng tử thứ ba là Lê
Duy Lương.
Bà tần thứ hai là Vũ Thị Ngọc Quý của vua
Thế Tông nghị Hoàng đế (phủ Kiến Xương, huyện Chân Định làng Nhân hoàng)
Bà tần của giản huy Hoàng đế là Bùi Thị Ngọc
Viên (phủ Thường Tín, huyện Thượng Phúc, làng Nhân Hiền)
Những vị công đức loại Một:
Bà tần thứ hai của vua Thế Tông là Lê Thị
Ngọc Lam hiệu Diệu Tông.
Ông Nguyễn Bột chỉ huy sứ, nghĩa trạch hầu
(làng Duy Tinh) vợ là Lê Thị Sâm.
Ông Đỗ Yên (Điện tiền đô hiệu điểm ty tả
hiệu điểm tham đốc hiệu lực tứ vệ quân vụ sự kiên nghĩa hầu, làng Duy Nhất) Vợ
là Lê Thị Dương.
Ông Nguyễn Điện An (Đô chỉ huy) Vợ là
Dương Thị Khuyên
Ông Nguyễn Viết Trí (đô chỉ huy sứ triều
thiết hầu). Vợ là Ngô Thị Phấn, Hoàng Thị Hiến
Ông Hà Hữu Lược (chỉ huy) vợ là Lê Thị
Thơm, Đỗ Thị Duyên, con trai là Hà Hữu Phúc, Hà Hữu Đức.
Năm Thứ chín đời Vĩnh Tộ muôn muôn năm,
tháng cuối xuân ngày tốt.
Vâng chỉ nhà vua truyền cho viết bia là cẩm y vệ đoán
sự tây lĩnh bá Lê Minh Phúc (làng Lam Sơn xã Quảng Thi)
Người soạn văn bia và minh là ông Nguyễn Thực, tiến sĩ
xuất thân khoa Ất Mùi dực vận tán hiệp công thần, đặc tiền kim tử vinh lộc đại
phu, Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị độc, coi giữ công việc của viện hàn
lâm, đông các học sĩ thiếu bảo phương lan hầu từ đông vân điềm.
Người khắc chữ vào bia:
Cục phó coi về đá và ngọc Nguyễn Văn Minh.
Cục phó Nguyễn Viết Đương (Tài lương) Nguyễn Liễu
(gia… huyện… bang... xã)
Nguyễn Quý Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét