Đầu Video:
Dùng hình ảnh hoa hồng đang nở (hình động)
sau nền chữ “LÀNG CỔ DUY TINH KÝ SỰ” tiếp là hình ảnh tiêu biểu của Làng: Chùa,
Tượng Phật, Bia, Chợ, Cầu, Cây đa, Giếng nước, Tượng Lý Thường Kiệt…; kết hợp
âm thanh: Nhạc dân tộc, chuông chùa, gà gáy sáng, tiếng cu gáy gợi về một làng
quê Việt nam cổ kính.
Đề từ:
Kính tặng Làng cổ Duy Tinh
Quê hương yêu dấu của tôi.
Tập Một:
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Làng Duy Tinh là quê hương yêu dấu của chúng ta.
Duy Tinh thuộc xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc,
tỉnh Thanh Hóa. Hậu Lộc là một huyện có biển, có rừng và đồng bằng tốt tươi.
Nhân dân Hậu Lộc vốn có truyền thống lao động cần cù, yêu nước chống giặc ngoại
xâm và một bề dày Văn Hóa lâu đời.
(Dùng bài hát “Tình ca Hậu
Lộc” ca sĩ Anh Thơ trình bày, kết hợp
minh họa bằng hình ảnh và clip - Chuyển đoạn bằng hình ảnh và nhạc ngắn.)
Làng Duy
Tinh quê ta, còn có tên gọi làng Chợ Phủ.
Tên Duy Tinh vốn lấy trong sách cổ Kinh
Thư. Ý của tiền nhân muốn nhắc nhở các thế hệ người làng ta phải biết giữ cái
tâm của mình luôn thuần khiết, tinh túy và trong sáng.
Lịch sử ghi rõ: năm 1029 Lý Công Uẩn cho
dời lỵ sở trấn Thanh Hoa từ Đông Phố Làng Giàng Thiệu Hóa về làng Duy Tinh. Như
vậy tên Duy Tinh phải có từ thời Lý hoặc là trước nữa.
Làng Duy Tinh ở Tây Nam huyện Hậu Lộc.
Phía Tây là sông Trà giang, qua cầu Phủ gặp hai làng Bản Định và Đại An của huyện
Hoằng Hóa; ngược phía Bắc là xã Mỹ Lộc, xuôi phương Nam là xã Thuần Lộc, nhìn về
phía Đông là các làng Mỹ Điện – Mỹ Quang – Hà Mát và làng mới Văn Xuân của xã
Văn Lộc.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng và nhạc ngắn)
Làng Mỹ Điện xưa là một vùng hoang vu rậm
rạp, thuộc đất làng Duy Tinh. Vào thế kỷ thứ 17 ông Nguyễn Thủ người làng ta, ở
Xóm Hàng Gà chuyển cư ra khai phá.
Qua năm tháng cải tạo đất đai mầu mỡ tốt
tươi, anh em trong họ là ông Nguyễn Thịnh, nhà bà Hậu Thinh cùng ra lập nghiệp,
rồi một số gia đình họ Lê, họ Bùi trong làng ra quần tụ cùng một số người quanh
vùng đến ở, thành một xóm trù phú.
Nơi đây trước có đền Phong Ngãi, xóm ở cạnh đền
nên gọi là Xóm Đền.
Đền Phong Ngãi thờ bà Hoàng Thái Hậu
Nguyễn Thị Minh Thụy thời hậu Lê, người đã có công trùng tu xây dựng Cầu và Chợ
Phủ.
Thủ từ coi đền là người làng ta.
Sau năm 1945 Đền Phong Ngãi không có người
chăm sóc nữa. Thế gian biến cải, thời thế đổi thay, sự vô tình của con người và
năm tháng đã hủy hoại đền vào những năm 60 của thế kỷ trước.
Trước năm 1945 xóm Đền thuộc làng Duy
Tinh,
Trải qua nhiều năm tháng, xóm Đền đổi
tên là Phong Mỹ Điện rồi Làng Mỹ Điện như ngày nay.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng kết hợp nhạc ngắn)
Từ Mỹ điện xuôi phía Đông 500m là xóm Vạn.
Cuối thế kỷ 17, ông Mai Văn Lũy người miền
biển Lạch Hới lên định cư đầu tiên làm nghề chài lưới.
Một số bà con vạn chài ở Hòa Lộc lên, Đò
Lèn xuống rồi cả Bộ Đầu và Hà Mát sang quần tụ cùng họ Mai, thành xóm nhỏ ven
sông làm nghề chài lưới nên gọi là xóm Vạn. Bây giờ gọi là Làng Mỹ Quang. Trước
năm 1945, xóm Vạn thuộc làng Bộ Đầu.
Các giáo sĩ phương Tây vào xóm Vạn và
xóm Đền truyền giáo hồi cuối thế kỷ 18. Đến nay Mỹ Điện và Mỹ Quang là hai làng
công giáo toàn tòng của xã Văn Lộc.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Gác chuông và Nhà thờ Mỹ Quang xây dựng
năm 1926.
Nhà thờ Mỹ Điện xây dựng năm 1937.
Cùng với Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh và
gác chuông Hà Mát, tạo nên một nét đẹp Văn Hóa đa sắc mầu của xã Văn Lộc.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng và nhạc ngắn)
Từ Mỹ Quang theo hướng đông bắc là làng
Hà Mát, nằm dọc theo sông Lạch Trường, nhìn ra núi Hà Dò phía Đông.
Vào cuối đời nhà Lê, cụ Vũ Lộc quê Hải
Dương có hai con làm quan to trong triều: Người anh là Vũ Đình Giám làm phó tướng,
người em là Vũ Đình Thận là Quận công được nhà vua ban điền trang thái ấp.
Họ Vũ xin ở vùng này, đã chiêu dân lập ấp
và lập nên làng Hà mát. Họ Vũ bây giờ thường lót là Vũ Danh, đây là dòng họ có
truyền thống hiếu học.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Di tích cổ ở làng Hà Mát chỉ còn lại cái
gác chuông ba tầng, rêu phong có nguy cơ đổ nát nay mai, nếu không được trùng
tu tôn tạo, dấu tích của một thời sẽ mãi mãi không còn!
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng dài và nhạc)
Qua đoạn sông Cổ ngựa là Làng Văn Xuân,
làng mới được thành lập năm 1983, thực hiện chủ trương giãn cư di dân.
Làng Văn Xuân là một làng thuần nông, chủ
yếu gồm cư dân 2 làng Duy Tinh và Hà Mát của xã Văn lộc chuyển cư.
Chuyển cảnh sang Tập 2 bằng clip dân ca Thanh Hóa Đi cấy sáng
trăng.
Tập Hai
CẦU PHƯỢNG HOÀNG
VÀ CHỢ TAM BẢO
Làng Duy Tinh là một làng cổ trên một
ngàn năm tuổi.
Năm 1029 Lý Công Uẩn cho dời lỵ sở của
Châu Ái (Thanh Hóa) từ Đông Phố Làng Giàng (Thiệu Hóa) về làng Duy Tinh.
Từ đó tính ra gần một ngàn năm, làng ta
là lỵ sở của tỉnh Thanh Hoá gần 400 năm, suốt 2 triều đại Lý
- Trần.
Rồi tiếp là lỵ sở của phủ Hà Trung thời Phong kiến
(Phủ Hà Trung gồm 4 huyện: Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Nga Sơn và Hà Trung) sau cách mạng
Tháng Tám là trụ sở của huyện Hậu Lộc, mãi đến năm 1984 trụ sở huyện Hậu Lộc mới
chuyển xuống Chợ Giầu – Thịnh Lộc.
Làng Duy Tinh còn có tên gọi dân dã: Làng Chợ Phủ ! Vì chợ ở ngay cạnh
Phủ Huyện.
(Chuyển cảnh)
Trước cách mạng Tháng Tám làng ta còn có
chợ Đình ở đầu xóm Hàng. Chợ họp
nhanh vào sáng sớm tinh mơ, nơi trao đổi mua bán chủ yếu là sản phẩm nghề làm
vàng giấy.
Một nghề thủ công do bà Hoàng Thái hậu
Nguyễn Thị Minh Thụy thời hậu Lê, mang từ kinh thành về dạy cho dân làng.
Hơn một nửa làng làm nghề này. Trẻ con
sáu bảy tuổi đã biết ngồi cuốn, tém vàng. Một nghề đơn giản nhưng đã là nguồn sống
chính của làng ta suốt một thời kỳ dài. Vậy mới có câu:
Duy Tinh là đất bà Hoàng
Trẻ thơ ba tuổi cầm vàng trong tay
Sau năm 1945 nghề này vẫn còn, đến đầu
những năm năm mươi của thế kỷ trước, khi thực hiện chống mê tín, nghề này mới bỏ
hẳn.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Hàng năm vào mùa cấy gặt, chợ Đình còn
là chợ lao động. Dân các làng quanh vùng đến chờ người làng ta thuê về làm
trong ngày.
Đây là một đặc điểm riêng của làng Duy
Tinh, một làng bán nông bán thương. Mấy năm trước, chợ lao động này vẫn duy trì
vào mùa vụ tại khu ngã tư chợ Phủ.
(Chuyển cảnh dài và nhạc ngắn)
Chợ Phủ làng ta ngày xưa ban đầu quy mô
còn nhỏ, chỉ là chợ trâu bò.
Văn bia Phượng Hoàng ghi như sau: Bản phủ có chợ trâu bò được lệnh sửa lại
thành chợ Tam Bảo.
Vào thời Lê trung hưng – tức là thời vua
Lê chúa Trịnh – bà cố nội của vua Lê Kính Tông là lão Hoàng Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Minh Thụy người hương Lam
Sơn, đã phát tâm thánh phật, cho trùng tu xây dựng lại cầu và chợ làng ta.
Công trình được khởi công vào ngày 12
tháng 7 Ất Mão (6/8/1615), là năm Hoằng Định thứ 15.
Sau khi hoàn thành đặt tên là cầu Phượng Hoàng và chợ Tam Bảo.
Cầu Phượng Hoàng làm bằng đá xanh núi Nhồi,
mặt cầu là những phiến đá lớn với đường viền chạm hoa văn tinh xảo.
Gần bốn trăm năm, cây cầu là nút giao
thông quan trọng của hai huyện và trong tỉnh. Mãi sau năm 1975, khi cầu xuống cấp
mới làm lại như ngày nay.
(Chuyển cảnh nhạc ngắn)
Bà Hoàng Thái Hậu còn cho xây đình chợ,
đình ba xã, đình thờ nơi thờ các vị thánh thần. Hàng năm Xuân Thu nhị kỳ đều tổ
chức tế lễ linh đình.
Chợ Tam Bảo lúc bấy giờ sầm uất lắm, nhất
là các ngày Rằm, Ba mươi và dịp Tết, người các nơi đổ về đông nghịt, ngồi họp cả
trên đường cái quan, đi lại phải len chân, thích cánh.
Một
tháng có sáu phiên chính, họp vào các ngày 5, 10, 15, 20, 25 và 30 hàng tháng.
Đây là chợ trung tâm của Phủ huyện, nên mới có câu:
Chợ huyện một tháng sáu phiên
Gặp cô hàng xén kết duyên Châu Trần
Biết bao đôi, nên duyên chồng vợ qua những
lần gặp nhau ở chợ.
Chợ cạnh phủ huyện lại ở bên sông, trên
bến dưới thuyền, bán buôn tấp nập. Hàng hóa đủ loại, có Hàng Bè bán luồng nứa gỗ.
Thuyền bè trên sông đông đúc, có thuyền chở cát, chở than, chở chum vại, cối
đá, đá tảng…cập bến vào ra tấp nập.
Trong chợ có đình chợ, đình ba xã bán vải
và tơ lụa. Điều này được ghi lại trên văn bia như sau:
“Là
nơi khách bốn phương qua lại, của cải hàng hóa buôn bán trao đổi, thật là nơi đến
đã lớn, nơi về lại to, là nơi đại đô hội của đất Thang Mộc vậy”.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Ngoài 6 phiên chính, hàng ngày chợ còn họp
vào buổi chiều gọi là chợ Hôm, chủ yếu
bán lương thực, thực phẩm. Nhiều nhất là cá biển, do đàn ông chạy cá dổi từ
Diêm Phố về chợ cho mẹ và vợ bán.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Bà Hoàng Thái hậu còn cấp cho làng Duy
Tinh 40 mẫu ruộng công điền, để chia cho các xuất đinh trong làng, người đi
lính còn được ưu tiên hơn.
Khi lên lão, ruộng công này phải trả lại
cho làng, để chia cho trai tráng vào tuổi 18 lớp sau. Việc này thể hiện tính
công bằng dân chủ thời phong kiến. Sau năm 1945 ruộng công này vẫn còn duy trì
một thời gian.
Từ thời Lê trung hưng, làng ta có xóm Duy Nhất cạnh chợ, dành cho người hương
Lam sơn, Nhuệ thôn và Yên Thường là quê hương bà hoàng được ở. Nhưng không được
hưởng ruộng công điền. Nên bấy giờ có câu: Duy
Nhất có đinh nhưng không có điền là vậy!
Năm 1945 xóm Duy Nhất có 21 hộ với gần một trăm nhân khẩu. Nhưng sau cách mạng
tháng Tám đến nay, cộng đồng Duy Tinh Duy
Nhất đoàn kết thống nhất, chung tay xây dựng làng Duy Tinh.
(Chuyển cảnh nhạc ngắn)
Đến thời vua Lê Thần Tông, niên hiệu
Vĩnh Tộ thứ chín (1628), vua truyền cho khắc bia: “Trùng tu Phượng Hoàng thị kiều bi” (Bia ghi lại việc trùng tu cầu
Phượng Hoàng và chợ).
Văn bia do Lễ bộ thương Nguyễn Thực soạn
lời.
Bia đặt trên lưng rùa, dựng tại chợ bên
cạnh đình ba xã, nay là các hiệu kinh doanh tại khu ngã tư.
Bia
cao 1,62m rộng 1,02m, dày 0,2m. Thân Rùa chiều dài 1,74m, chiều rộng 1,52m, chiều
dày 0,44m.
Gần
hai thập kỷ sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước; cửa hàng Bách Hóa huyện Hậu Lộc, đã hạ tấm bia
làm bàn giặt một thời gian dài, nên chữ trên bia mờ hết cả.
Các cụ làng ta đã phát hiện, kiên quyết giữ lại tấm bia cho con
cháu hiểu rõ và tự hào về một vùng đất văn vật. Hiện tại bia
được đưa về cất
tại chùa, nhưng đã bị sứt mẻ ở đầu.
Năm 1995 được sự chỉ đạo của Đảng ủy xã
Văn Lộc, ông Trần Lợi Tăng bí thư Đảng ủy xã cùng Ban viết sử của làng là các cụ
Nguyễn Văn Mậu, Lê Văn Quýnh, Trần Văn Bường, Ngô San, và một số cụ cao niên
trong làng, đã tham gia biên tập tài liệu về Bia Phượng Hoàng. Nhưng rất khó
khăn vì chữ mờ hết cả.
Rất mừng là gia đình cụ Bạ Thòa tìm được
bản chép tay của cụ Trần Lợi Hân. Lúc sinh thời, cụ Bạ Thòa tuy tuổi cao; nhưng
suốt một thời gian dài, ngày ngày cụ ra tấm bia khi còn dựng ở chợ, dò chép từng
chữ toàn bộ Văn bia.
Xin được ân tưởng công lao cụ Bạ Thòa,
đã có một nghĩa cử cao đẹp, nhờ đó ta mới biết được nội dung Văn bia.
Trên cơ sở bản chép tay của cụ Bạ Thòa,
cụ Lê Văn Quýnh và cụ Trần Văn Bường đã chép lại đầy đủ văn bản chữ Hán.
Rồi cụ Nguyễn Văn Mậu giáo viên về hưu,
lên Thanh Hóa nhờ cụ Lê Văn Uông bậc túc Nho Hán học của tỉnh nhà, người cháu
ngoại của làng Duy Tinh, đã dịch toàn bộ văn bia.
Cùng với tấm bia Sùng nghiêm diên thánh tự bi minh. Đây
là hai báu vật vô cùng quý giá của làng ta, minh chứng cho sự trường tồn của
làng Duy Tinh Chợ Phủ với bề dày lịch sử hơn một ngàn năm!
Chúng tôi thiết nghĩ, tấm bia Phượng
Hoàng này nên trả lại vị trí cũ, đặt tại chợ Phủ là chứng tích của một thời bà
Hoàng Thái hậu nhà Lê đã có công trùng tu cầu Phượng Hoàng và chợ Tam Bảo, để
khách bốn phương qua lại có dịp chiêm bái!
Làm được vậy, chắc rằng hồn thiêng linh ứng
của bà Hoàng Thái hậu và các vị tiền nhân đã nhất tâm công đức tiền của để
trùng tu xây cầu và chợ, sẽ phù hộ độ trì cho Chợ Phủ ta ngày càng sầm uất hơn!
(Kết thúc Tập 2 bằng một clip ngắn múa quạt)
Tập Ba
Danh nhân
LÝ THƯỜNG KIỆT VỚI LÀNG DUY TINH
Thiên nhiên và con người đã tạo tác dáng
làng Duy Tinh thành một hình thế kỳ thú mà bao đời nay mọi người đều thấy rõ:
Dáng vẻ làng ta giống hình con voi với khí thế uy phong lẫm liệt!
Hai chân trước là xóm Thưa và xóm Hàng,
hai chân sau là xóm Nạ và xóm Chùa. Cái vòi voi là đường cái uốn cong dọc theo
sông Trà lên làng Thái, đuôi voi là đoạn đầu ghềnh, chạy vòng theo sông Trà
xuôi về phía Đông.
Đường cái quan là xương sống voi. Bành
voi là khu Nghè và Chợ Phủ!
Về cấu trúc địa lý thiên nhiên đã tạo
tác làng ta thành con voi đang nằm phủ phục.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng)
Nhưng để hoàn chỉnh và ý nghĩa hơn, các vị
tiền nhân của làng đã tạo nên bốn con đường, đó là đường kéo dài các xóm Thưa,
xóm Hàng, xóm Nạ và xóm Chùa, từ trong làng chạy xuyên qua cánh đồng về phía
Đông, đặt chân trên bờ Lũy từ khu Đồn chạy dài về phương Nam.
Vì thế xóm Vũ không thông ra đồng, mà
vòng qua xóm Nạ bằng Ngõ Hào là cái bụng voi.
Bởi lẽ xóm Vũ là xóm dành cho quan võ từ
thời nhà Lý, nơi đây có Cồn Vũ để luyện quân. Quan võ cưỡi trên bành voi để chỉ
huy trận mạc.
Thế là, từ con voi nằm phủ phục, bỗng đứng
dậy trên bốn chân. Bốn chân voi, bước đi vững chắc trên Bờ Lũy, hiên ngang dũng
mãnh tiến về phương Nam!
Phải chăng nơi đây có sự giao hòa giữa
thiên nhiên và con người để tạo nên một làng quê vừa hiền hòa chân chất, vừa bất
khuất kiên cường trong chiều dài lịch sử.
Gợi cho ta một liên tưởng đẹp về con voi
chiến của Bà Triệu cưỡi, đánh quân Đông Ngô trên đất Phú Điền Hậu Lộc năm xưa!
(Chuyển cảnh dài và nhạc)
Tìm
trong sử sách còn ghi lại, chúng ta rất tự hào được người anh hùng dân tộc Lý
Thường Kiệt đã ở làng Duy Tinh 19 năm, trong thời gian ông làm Tổng trấn Thanh
Hoa từ năm 1082 đến năm 1101.
Sau
khi đánh đuổi quân Tống và lấy lại được châu Quảng Nguyên mà quân Tàu chiếm, uy
tín của ông lẫy lừng cả nước.
Vua
Lý Nhân Tông (1072 – 1127) coi ông như em nuôi và ban cho ông hiệu Thiên tử nghĩa đệ.
Năm
Nhâm Tuất 1082 cử ông trực tiếp vào coi giữ trấn Thanh Hoá.
Vào
Thanh Hoá năm 1082 khi ông 64 tuổi và trở lại Triều đình năm 1101 lúc ông đã 83
tuổi.
Tuy
tuổi đã cao, nhưng với tài thao lược của một vị tướng tài, ông tiếp tục xây dựng
trấn sở của Thanh Hoa là khu Đồn ở đông bắc làng Duy Tinh về mọi mặt.
Củng
cố bộ máy cai trị, động viên nhân dân làm hết sức mình vì lợi ích chung.
Suốt
thời gian ông làm Tổng trấn, không những trấn Thanh Hoa yên tĩnh mà cả châu
Hoan, và ba châu Bố Chính, Ma Linh, Đaị Lý cũng đều bình yên.
Với
quan điểm “dân lấy no ấm làm đầu, nước lấy
nghề nông làm gốc”, ông khuyến khích nghề nông, trồng dâu, nuôi tằm, ươm
tơ, dệt lụa.
Mở
mang nghề đánh cá, làm muối, nghề làm rừng, săn thú rừng phục vụ dân sinh. Ông
lại cho làm nghề thủ công mỹ nghệ, dò
núi tìm đá làm các khí cụ như đẽo khánh đá, làm bia v.v…
Nhờ
vậy kinh tế, đời sống của nhân dân Thanh Hóa ngày một khá lên.
Về
văn hoá ông mở mang học hành, nâng cao dân trí, xây dựng phong tục tập quán tốt
đẹp, xoá bỏ tập tục xấu.
Ông
còn chú ý nuôi dưỡng những người già cô đơn ở nơi thôn dã, làm cho ai cũng có
cuộc sống an lành.
Về
quân sự, tuy đã bình Chiêm phạt Tống thắng lợi; hoà bình đã lập lại, thanh thế
nước ta bấy giờ rất lớn, nhưng khi vào nhậm chức ở trấn Thanh Hoa, ông vẫn luôn
chú trọng việc quân.
Thường
xuyên luyện tập đội quân thường trực, nâng cao trình độ về mọi mặt. Ông thực hiện
chế độ ngụ binh ư nông. Nên lực lượng
quân sự của trấn Thanh Hoa rất hùng mạnh, có thể đối phó với mọi tình huống bất
trắc xẩy ra.
Như vậy, ở Duy Tinh 19 năm, Lý Thường Kiệt
đã xây dựng Duy Tinh không những là trung tâm hành chính, mà còn là một căn cứ
quân sự; nơi đồn trú quân cơ, là phên dậu trấn giữ phương Nam vững chắc cho Triều
đình nhà Lý.
(Chuyển cảnh bằng hiệu ứng và nhạc)
*
*
*
Để ghi nhớ công ơn to lớn của Lý Thường
Kiệt, đối với Thanh Hóa nói chung và với làng Duy Tinh nói riêng, làng ta đã tạc
tượng thờ ông ở chùa. Tượng ông ở ngay gian tiền đường.
Thực ra, việc thờ ông ở chùa chưa xứng với
công lao của ông đối với Thanh Hóa.
Suốt 19 năm làm Tổng trấn, Lý Thường Kiệt
đã mở mang cho Thanh Hóa phát triển nhiều lĩnh vực về kinh tế Văn Hóa Xã hội và
quốc phòng an ninh đều mạnh.
Đặt cơ sở vững chắc cho nền hành chính
Thanh Hóa suốt hai triều đại Lý Trần trong 400 năm tại làng Duy Tinh, và cả sau
này cho đến năm 1984.
Đúng ra, phải có một quần thể di tích tầm
cỡ quốc gia, phải xây đền tạc tượng thờ ông tại khu Đồn.
Phải chăng ta đã lãng quên lịch sử,
trong khi lại mắc hội chứng sùng bái cá nhân đương đại, đâu cũng mọc lên nhà tưởng
niệm, đền thờ… khắp cả nước, không chỉ một người, mà hàng chục người…con số này
đang có chiều hướng gia tăng.
Trường THPT Hậu Lộc 2 ở khu Đồn hiện
nay, nên đổi tên là Trường THPT Lý Thường Kiệt.
Sân Trường cần dựng tượng Ông với dáng đứng
hiên ngang, khí phách của một anh hùng phạt Tống bình Chiêm sừng sững trên 19 bậc
cao; ghi lại 19 năm ông đã làm Tổng trấn Thanh Hoa!
Làm được vậy, con cháu ta hàng ngày đến
Trường sẽ thấy ấm áp hơn, bởi có sự che chở bao dung của tiền nhân, như được tiếp
thêm sức mạnh, để vững bước trên đường đời.
(Kết thúc Tập 3 bằng một clip ngắn múa quạt)
Tập Bốn
CHÙA SÙNG NGHIÊM DIÊN THÁNH
Những di tích xưa của làng ta, đến sau
năm 1954 vẫn còn gần như nguyên vẹn: Khu Đồn (nay là Trường cấp 3) bên cạnh là
sân vận động.
Sân vận động, do Pháp xây dựng vào những
năm bốn mươi của thế kỷ trước. Ngày nay là sân Văn Hóa, Thể Thao của làng và
huyện.
Rồi Bờ Lũy, khu Hào, Cồn Chiêng, Cồn Trống,
Cồn Vũ, Án sơn, Lăng (nơi dành cho mộ các nhà quan, nay là Trường Mầm non bán
công).
Bái Vươn nay là nghĩa địa cách làng trên
1 km, đảm bảo vệ sinh môi trường, nhưng cần được quy hoạch, hợp lý trong xây cất,
đậm nét truyền thống dân tộc.
Đền Phong Ngãi, Chùa Vải, Chùa Chung
(nay là trường phổ thông cơ sở và Trường tiểu học Văn lộc), Đình, Đền, Miếu, Phủ,
Hiền Chỉ (nay là Trạm xá), Nghè, Đình Chợ, Đình thờ… chỉ còn lại trong ký ức những
người cao tuổi mà thôi.
Đâu rồi Cây đa chùa Chung, Cây đa con,
Cây đa giếng Hào, Cây đa tán áp làng Thái, Cây vông Vươn, Hàng phượng đường cái
quan?
Hiện chỉ còn cây đa Thổ Thàng có nguy cơ
chết dần, nếu không được chính quyền và mọi người quan tâm.
Giếng Quai, Giếng Phỏ, Giếng Nạ, Giếng
Hào, Giếng Huyện, Giếng Chùa… Nhưng bây giờ không còn nữa.
Hiện còn Ao Sen (nước Ao Sen vừa trong vừa
ngọt, cả làng gánh nước về làm nước uống; đặc biệt nước Ao Sen pha chè Tàu rất
ngon, hương thơm vị đậm!)
Ao sen làm đẹp thêm cảnh quan của Đài tưởng
niệm Liệt sĩ và Nhà Văn Hóa Làng, cần đầu tư nâng cấp khu vực này, cho công trình
Văn Hóa ngang tầm với bề dầy Lịch sử của Làng!
Cuối những năm 50 của thế kỷ trước, sau
khi hoàn thành cuộc CCRĐ long trời lở đất, nông dân vùng lên đánh đổ giai cấp địa
chủ, thực hiện người cày có ruộng.
Tiếp đến là phong trào HTX. Suốt hai thập
kỷ sáu mươi và bảy mươi của thế kỷ trước! Người người hừng hực xông lên xốc tới,
cả nước là một đại công trường, tiến hành sát nhập xã, huyện, tỉnh để làm ăn lớn!
Với khí thế xung thiên “thay trời đổi đất, xếp đặt lại giang sơn”
để xây dựng cuộc sống mới!
Trong cuộc xếp đặt lại giang sơn này, phần lớn
những di tích xưa của làng ta mãi mãi không còn.
Những cây cổ thụ được hạ xuống đóng bàn
học trò và làm nhà.
Bờ Lũy từ khu Đồn xuôi tận chùa Chung, mặt
Lũy rộng hàng chục mét, với nhiều cây bóng mát… được san phẳng thành ruộng.
Khu Đồn được xây dựng thành cơ quan
Lương thực của huyện, rồi là Trường cấp 3. Đất chùa làm trụ sở công an…
Trong quá trình khai phá làm gạch và xây
nhà, đã phát hiện nhiều cổ vật nằm dưới lòng đất, như bát đĩa sứ, tiền đồng, đá
tảng chạm hoa văn… Nhất là đồ gốm nung từ thời Lý - Trần. Nhưng rồi thất lạc cả.
Chúng tôi chụp được hình ảnh một cổ rồng
bằng gốm nung, nằm lăn lóc bên bờ ao sen. Được biết phần trên là đầu Rồng rất
tinh xảo, còn nguyên cả râu rồng, liệu có còn không?.
Mấy phiến đá chạm rồng, và một số cổ vật
nhà chùa phải cất kho, sau vụ mất bộ tượng Tam Thế vào năm 2010, có tuổi đời
trên 400 năm.
Làng ta nên có cuộc vận động thu gom những
hiện vật cổ, trưng bày tại Nhà Văn Hóa, cho hôm nay và mai sau mọi người rõ và
tự hào về bề dày lịch sử của làng.
Hiện tại chỉ còn một số rất ít di tích,
minh chứng cho tuổi của làng hơn một ngàn năm tuổi, đó là tấm bia và ngôi chùa
Sùng Nghiêm Diên Thánh.
(Chuyển
cảnh bằng hiệu ứng và nhạc)
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh được trùng
tu xây dựng lại năm 1116, để ghi nhớ sự kiện vua Lý Nhân Tông đi tuần phương
Nam, đến địa hạt Châu Ái, đã về Làng Duy Tinh là lỵ sở Trấn Thanh Hoa bấy giờ.
Sau khi vua hồi cung, để phúc đáp ơn vua
và chúc
quốc vận trường tồn; Thông phán Chu công, người trị
nhậm địa hạt Trấn Thanh Hoa liền triệu tập bô lão trong làng và các thuộc lại
trong Trấn, quyết định trùng tu xây dựng lại chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh.
Dân làng Duy Tinh đã hăng hái tham gia
đóng góp sức người, sức của cho việc xây lại chùa và làm bia. Sau hai năm trùng
tu xây dựng, Chùa đã hoàn thành.
Tấm bia dựng ngày 18 tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ chín (1118).
Bia cao 2,02 m, rộng 1,22 m trang trí đẹp,
kiểu dây leo và rồng xoắn đời Lý. Bài Văn bia tựa đề là “Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh” do Thông thiền Hải chiếu đại sư,
tứ tử thích PHÁP BẢO soạn lời.
Bài Văn bia đã được in trong Tập 1 cuốn Thơ Văn Lý Trần (Trang 368) xuất bản lần
đầu năm 1977 của Nhà Xuất Bản KHXH
Tấm bia hiện để ở nhà bia trước chùa. Rất
đau lòng là bom đạn của Pháp và Mỹ đã làm sứt vỡ một số chỗ không còn chữ. Một
dấu tích tội ác của quân xâm lược, găm vào Lịch Sử làng ta!
Hiện nay nhà chùa có kế hoạch phục chế lại
tấm bia đúng với nguyên bản khi giáo sư Hoàng Xuân Hãn về khảo cứu và chụp ảnh
tấm bia năm 1943.
Chùa Sùng
Nghiêm Diên Thánh đã được Bộ Văn Hoá xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia
ngày 13/3/1990.
Chúng tôi đã gặp nhà sư Thích Đàm Tâm. Sư cụ Thích
Đàm Tâm trụ trì ở chùa Sùng nghiêm Diên thánh trên 50 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của cụ đã trải thăng trầm và
biến cố qua bao năm tháng, cùng với ngôi chùa và làng cổ Duy Tinh – Chợ Phủ.
Trong buổi trao đổi trên tinh thần Giác tha, nghĩa là không những giác ngộ
cho mình mà còn tìm phương pháp giác ngộ cho kẻ khác. Cụ lần giở từng trang và
đọc đoạn ghi trên Văn bia:
“…Ở phía Tây Nam thành có di tích ngôi chùa cổ, nền cũ mà gạch
ngói vẫn còn, nhà cửa thì cỏ gai đã mọc… Hai cửa khuyết khống chế phía trước,
ba dòng sông ôm ấp phía sau. Thanh tĩnh tịch mịch, thực là nơi trụ trì của nhà
Phật, nơi gửi gấm tâm tư của Bồ tát.”.
Điều này minh chứng Làng ta đã có trước
khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng long năm 1010. Như vậy làng ta đã hơn một
ngàn năm tuổi. Đương nhiên chùa Sùng Nghiêm diên thánh cũng cùng tuổi với làng.
Khi trùng tu xong, ngôi chùa khá quy mô
hoành tráng. Văn bia còn ghi rõ:
“Ngắm xem: Rường nhà cong cong như cầu vồng sau mưa quạnh quẽ nhô
ra, ngói uyên ương phơi dưới gió như sập sè múa lượn.
Nóc nhà uốn như trĩ bay xòe cánh; đấu chạm trổ như phượng múa lai
chầu. Mái cong lấp lánh dưới ánh mặt trời, hiên lượn quanh co trước gió.”
Đọc đoạn văn bia trên, ta có thể hình dung ngôi chùa
lúc bấy giờ uy nghi và tráng lệ lắm. Thời nhà Lý rất sùng đạo Phật, các chùa được
xây dựng nhiều và rất to đẹp là điều dễ hiểu.
Nhưng trải qua bao biến cố, chùa Sùng Nghiêm Diên
Thánh đã nhiều lần thay đổi. Sau năm 1955 gác chuông và Tam quan không còn, phạm
vi đất chùa cũng thu hẹp lại.
Chỉ có tấm bia là trơ gan cùng tuế nguyệt, nhờ vậy
mà ta biết được làng ta đã hàng ngàn năm tuổi.
Sư Thích Đàm Tâm cùng với các thiện nam tín nữ và
dân làng đã giữ gìn, sửa sang ngôi chùa đến sau năm 1975, chùa chỉ còn lại một
khu nhà 5 gian phía trước và dãy nhà ngang phía sau.
Sau khi chùa được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Được
sự quan tâm của chính quyền các cấp. Dân làng Duy Tinh cùng với sự hằng tâm
công đức của thiện nam tín nữ và nhân dân các nơi, tham gia đóng góp tiền của.
Hơn 10 năm nay, chùa vẫn tiếp tục trùng tu tôn tạo
cho xứng tầm với ngôi chùa cổ hơn một ngàn năm tuổi.
Cảnh quan thanh tĩnh, trầm mặc uy nghi của chốn thiền
môn. Làm cho mỗi khách vãng cảnh lòng thêm thư thái.
Vượt qua cầu đá bắc trên hồ sen, ta nhìn rõ dòng chữ
“Sùng nghiêm diên thánh tự” là tên
ngôi chùa.
Vào phía trong vẫn còn là một công trình trùng tu
tôn tạo dở dang, nhưng ngày ngày vẫn vang xa tiếng chuông chùa mỗi sáng mỗi chiều,
làm ta nao lòng về một vùng quê yêu dấu.
(Chuyển
cảnh và nhạc)
Hàng năm chùa Làng Duy Tinh mở Lễ hội vào ngày mồng
tám tháng hai, và kéo dài 3, 4 ngày liền.
Những ngày đầu năm cũng là dịp vui Xuân sau một năm
lao động vất vả.
Mọi người đến Chùa cầu cho quốc thái dân an, mong một
năm an lành cho mọi nhà, mọi người luôn khỏe mạnh và thịnh vượng an khang!
(Kết thúc Tập 4 bằng một
clip ngắn: bài hát Vào chùa do nghệ sĩ Thu Huyền hát)
Tập Năm
DUY TINH NGÀY MỚI
(Chuyển
cảnh và nhạc nền)
Với bề dầy truyền thống hơn một ngàn năm, làng Duy
Tinh suốt 70 năm qua dưới chế độ dân chủ cộng hòa và xã hội chủ nghĩa, đã có những
bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt.
Cùng với Hanoi, ngày 19 Tháng Tám năm 1945, nhân dân
Hậu Lộc đã tiến hành cuộc khởi nghĩa. Tự vệ Làng Duy Tinh cùng với tự vệ Huyện
đã chiếm phủ đường vào đêm 19 tháng Tám. Tri huyện Lê Chí Hoan đầu hàng vô điều
kiện, bàn giao công sở và dấu cho cho chính quyền cách mạng.
Một trang sử mới được mở ra. Làng Duy Tinh đỏ cờ trong niềm vui Độc Lập Tự Do.
Vừa thoát khỏi ách
nô lệ, chúng ta lại trải qua các cuộc kháng chiến đánh Pháp đuổi Mỹ, chống Tàu
bành trướng để giữ gìn biên cương đất nước.
Nhân dân làng Duy
Tinh cùng cả nước phải gồng mình lên, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, khẳng định
ý chí Không có gì quý hơn độc lập tự do để xây dựng quê hương đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, điều hành thực hiện của chính quyền, sự đoàn kết của các đoàn thể và các
tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc, dân làng Duy Tinh quyết tâm xây dựng
quê hương, đã có những bước đi vững mạnh trên tất cả các lĩnh vực. Nhất là từ
khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới.
Đời sống kinh tế
phát triển mạnh mẽ. Không còn cảnh chạy ăn từng bữa lần hồi cuốc rau má, để
mang vạ là phá đường tàu! Ăn ngon mặc
đẹp là nhu cầu bình thường.
Nhà tranh vách đất
được thế chỗ bằng những ngôi nhà cao tầng, không ít những ngôi biệt thự khang
trang. Nhà cổ hàng trăm năm được cải tạo nâng cấp, còn đâu bóng dáng của một thời
để nhớ!
Lũy Tre Làng vây bọc chặt chẽ bao đời, đã bị phá toang và cuốn phăng
đi, bởi
tốc độ
vũ bão của cơn lốc cơ chế thị trường.
Đường làng ngõ xóm
đều bê tông hóa, làng thành phố. Lớp trẻ không hình dung được đĩa đèn dầu là
gì, họ chăng đèn điện kết hoa đăng mỗi dịp Tết đến Xuân về.
(Chuyển cảnh – nhạc vui sôi nổi)
Gần một
ngàn năm, làng Duy Tinh đã từng là trung tâm hành chính, kinh tế của tỉnh Thanh
Hóa rồi của Phủ và của Huyện. Lại ở vào vị trí
giao lưu với nhiều vùng, nên làng ta có đặc trưng riêng:
Một
làng bán nông bán thương đa ngành nghề, ngoài làm ruộng và đi buôn còn có nhiều
nghề thủ công như nghề rèn, nghề đóng cối xay, làm vàng mã, mở xưởng giấy, thợ
nề.
Nghề mộc
nổi tiếng trong tỉnh là khéo tay về làm nhà luồng, vì mộng luồng phụ thuộc vào
độ cong của cây, nên đục và vào mộng phải có kỹ thuật cao.
Nghề
đan lát thúng mủng dần sàng kên nơm, nhủi tép và nong nia rổ rá…
Phố chợ,
có thợ chữa đồng hồ, máy may, chụp ảnh, sửa xe. Hiệu thuốc bắc, hiệu sách, cửa
hàng tạp hóa, hiệu ăn. Ẩm thực đã có thương hiệu từ xưa nhất là dò chả, nem
chua và bánh dày dò.
(Chuyển cảnh)
Duy
Tinh là đất hiếu học, khá đông người làm nghề giáo. Trước đây trong làng có
hàng chục thầy đồ dạy chữ Nho. Nhiều thầy đồ ra kinh bắc dạy học và ở lại các tỉnh
Bắc ninh, Hải Dương…làm quê hương thứ hai. Con em trong làng không ít người
theo học Trường Pháp Việt ngay tại làng.
Bây giờ
các Trường cấp 1, cấp 2, cấp 3 đều ở làng, rất thuận lợi cho con cháu đi học.
Trên 80% gia đình có người học Đại Học, có nhà có 2, 3 người là thạc sĩ, tiến
sĩ.
Hiện
nay có hơn một trăm người là giáo viên từ Mầm Non, cấp Tiểu học đến các trường
Cao đẳng Đại học và Học viện.
Nhiều
nhà tuy khó khăn về kinh tế nhưng vẫn lo cho con ăn học đến nơi đến chốn. Thời
nào cũng có người đỗ đạt cao.
Năm
1941, cụ Lê Trần Kềnh được vua Bảo Đại trao phần thưởng đạt giải nhất trong kỳ
thi học sinh giỏi, vua sức cho quan huyện phải tổ chức lễ đón. Làng mang 2 kiệu
để rước bằng và phần thưởng.
Ngày
nay được phong trào khuyến học chăm lo, hàng năm con cháu thi đỗ vào các trường
Đại Học, Cao Đẳng luôn đạt tỷ lệ cao trong huyện. Chi 3 họ Nguyễn được khen thưởng
là dòng họ hiếu học tiêu biểu cấp Tỉnh.
Năm
2005 ông Trần Kềnh xóm Tinh Anh, một thương binh nặng đã được Bộ Giáo Dục, Hội
Khuyến học và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tặng danh hiệu «gia đình hiếu học tiêu
biểu».
Hiện có
trên 20 người là Giáo sư Tiến sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ Khoa Học đảm trách những vị
trí trọng yếu các nơi như: Viện Toán, Đại Học Bách Khoa, Đại Học Giao Thông, Đại
Học Thủy Lợi, Kinh Tế Quốc Dân, Học Viện Quân Sự, Văn phòng Quốc hội…
Trong
đó có Giáo sư Tiến sĩ Khoa học, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Thiện Phúc, Hiệu phó
Trường ĐHBK Hanoi và là Chủ tịch Hội Khoa học Công nghệ Robot Việt Nam.
Không
ít người phát triển trong lĩnh vực Kinh Tế, và doanh nhân thành đạt, có cương vị
cao trong các tổng công ty danh tiếng như Dầu Khí, Truyền thông đa phương tiện…
(Chuyển cảnh)
Năm 1996, Bộ Văn Hóa – Thông Tin tổ chức Hội thảo về
làng văn hóa, Duy Tinh được đại diện
cho Thanh Hóa báo cáo, và là một trong 30 làng của cả nước được
vinh danh là Làng Văn Hóa cấp Quốc gia. Là một trong 10 làng tiêu biểu các tỉnh phía Bắc.
Hiện nay thực hiện
phong trào «Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống Văn Hóa ở khu dân cư» và «Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới». Duy Tinh đã có những bước chuyển biến mạnh về mọi mặt trong việc
thực hiện 19 tiêu chí.
Hạ tầng
cơ sở hoàn chỉnh. Điện, Đường, Trường, Trạm đầy đủ và chất lượng, đường làng
ngõ xóm phong quang, vệ sinh môi trường xanh sạch đẹp. Đời sống được nâng cao,
không có hộ đói. Trạm xá có bác sĩ
chăm sóc sức khỏe cho mọi người.
Nếp sống
Văn Hóa lành mạnh, giữ gìn bản sắc dân tộc đạo hiếu, trên kính dưới nhường, thờ
cúng tổ tiên nhớ về nguồn cội.
Nhiều dòng họ xây cất Nhà thờ khang trang đẹp đẽ.
Không còn hủ tục lạc hậu trong tang ma, lễ hội,
sóc vọng ngày Tết và cưới hỏi. Đám cưới có tục mời trầu cả làng, một nét đẹp từ
xưa vẫn còn.
(Chuyển cảnh clip cờ bay và nhạc)
Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững chắc. Bốn thôn Tinh Anh, Tinh Hoa, Tinh
Phú, Tinh Lộc trong làng Duy Tinh đều có chi bộ Đảng với trên 160 đảng viên,
chính quyền và đoàn thể vững mạnh. An ninh chính trị, trật tự xã hội được ổn định.
Văn Hóa thuần Việt được chọn lọc với những
nét tiêu biểu: Lòng yêu quê hương đất nước sâu đậm, cần cù, nhân ái, thuần hậu,
vị tha… sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cao đẹp của Tổ quốc.
Trong các cuộc kháng chiến giữ nước của
dân tộc thời kỳ hiện đại, quê ta có 81 người con mãi mãi không trở về. Trong đó liệt sĩ chống
Pháp:13 người, liệt sĩ chống Mỹ: 61 người. Liệt sĩ chống quân Tàu bành trướng:
7 người.
Xin được kính cẩn thắp nén tâm nhang trước
linh hồn các đồng đội của tôi.
Bây giờ các anh, các chị về quê hương lặng
yên bằng những dòng chữ ghi họ tên, nhưng đất mẹ Văn Lộc – Duy Tinh luôn mãi
mãi ôm các anh chị trong vòng tay ấm áp, bởi các anh chị đã hy sinh cho sự nghiệp
cao cả của non sông đất nước và cho chính quê hương Duy Tinh – Văn Lộc yêu
thương!
Xin được tri ân các mẹ Việt Nam anh
hùng, đại diện tiêu biểu cho các bà mẹ quê
ta, đã sinh ra những người con làm rạng rỡ tên Duy Tinh – Văn Lộc, trên
tất cả các lĩnh vực trong chiến đấu xây dựng quê hương đất nước .
Đi khắp bốn phương
Vẫn luôn nhớ về Chợ Phủ
Nơi mẹ ta lam lũ váy đụp áo nâu
Sáng lội đồng sâu,
Chiều rạc chân chạy chợ.
Tối khuya về,
Ru con trong mơ ngủ.
Bên ướt mẹ nằm bên ráo phần con
Nay bạc trắng mái đầu,
Ta vẫn không hết nợ,
Nghĩa nặng ân tình đất mẹ Duy Tinh.
*
Duy Tinh ngày mới đang có bước
đi mạnh mẽ trên tất cả mọi mặt. Mười sáu họ lớn trong một làng, nhưng không cục
bộ bè phái. Sống trọn tình vẹn nghĩa, mọi công to việc nhỏ đều có nhau. Chung
tay đoàn kết vì công việc cộng đồng.
Trong nhà thì trên dưới hiếu đễ, biết bảo
nhau giữ gìn nền nếp gia phong;
Ngoài xã hội thì luôn trọng nhân cách,
trung thực đạo làm người.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của Làng.
Thực xứng danh với tên gọi: Làng DUY
TINH!
*
Kết thúc Video bằng một
clip ngắn pháo hoa trên nền nhạc Quê Hương và lời Cám ơn:
-
Trong phim có sử dụng một số clip và hình ảnh trên mạng để minh họa
-
Bài hát Tình ca Hậu Lộc do ca sĩ Anh Thơ trình bầy.
-
Cám ơn các cụ trong làng đã cung cấp tài liệu và góp ý trao đổi.
-
Cám ơn quý vị đã xem phim,.
-
Cám ơn sư cụ Thích Đàm Tâm.
Tháng Tư năm Nhâm Thìn - 2012
Nguyễn Quý Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét