Hồi ký: LÊ TRẦN CẢNH
*
Lời thưa: Cụ Lê Trần Cảnh sinh năm 1932, là giáo viên
PTTH dạy học ở huyện Hậu Lộc trên 30 năm. Sau giải phóng năm 1975, cụ nhận nhiệm
vụ vào Thừa Thiên Huế dạy học cho đến khi nghỉ hưu. Hiện tại cụ nghỉ hưu tại
Phú Bài - Thừa Thiên Huế.
Xin trích giới thiệu một số đoạn trong Hồi ký của cụ viết về quê hương.
Xin trích giới thiệu một số đoạn trong Hồi ký của cụ viết về quê hương.
Quê tôi là làng Duy Tinh, xã Văn Lộc, huyện Hậu lộc tỉnh Thanh Hóa; tên
thường gọi là làng Chợ Phủ. Trước năm 1945 là xã Duy Tinh, tổng Du Trường, huyện
Hậu lộc.
Làng có tự bao giờ? chưa có tài liệu chính
xác về năm tháng cụ thể. Nhưng theo văn bia "Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh" hiện còn ở chùa làng ghi
rõ:
Chùa làng đã có từ trước thời Nhà Lý. Năm
1116 vua Lý Nhân Tông vào thị sát trấn Thanh Hoa (sở nhậm tại làng Duy Tinh).
Sau khi vua hồi cung, tổng trấn Thanh Hoa là Chu Nguyên Hạo cho trùng tu ngôi
chùa cũ, khắc bia để ghi nhớ ơn vua và chúc quốc vận trường tồn.
Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng
Long năm 1010, đến năm 1029 nhà Lý cho dời lỵ sở trấn Thanh Hoa từ Đông Phố
làng Giàng (Thiệu Hóa) về làng Duy Tinh.
Như vậy, làng Duy Tinh có từ trước thời
nhà Lý. Chính sử đều ghi: Làng Duy Tinh là lỵ sở Thanh Hoa từ 1029 đến 1400 thuộc
hai triều đại Lý - Trần. Từ thời hậu Lê đến thời vua Minh Mạng là lỵ sở phủ Hà
Trung, gồm 4 huyện: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa và Hà Trung. Sau năm 1945 là trụ
sở huyện Hậu Lộc đến năm 1984.
Tên Duy Tinh có trước thời nhà Lý. Các vị tiền nhân của làng đã lấy câu “Duy Tinh Duy
Nhất” trong thiên Đại mô, phần Ngu Thư của bộ Kinh Thư để đặt tên Làng. Nguyên văn là:
Nhân tâm duy
nguy,
人 心 惟 危
Đạo tâm duy vi. 道 心 惟 微
Duy Tinh, Duy Nhất, 惟 精 惟 壹
Doãn chấp quyết
Trung.
允 执 厥 中
Ý các vị muốn nhắc
nhở con cháu, phải chuyên tâm giữ cái Tâm của mình luôn thuần khiết tinh túy và
trong sáng! Thế mới biết các vị tiền nhân của làng thâm thúy biết dường nào!
Cái tên chữ Duy
Tinh của làng, người dân chỉ dùng trên giấy tờ văn bản, còn tên phổ biến vẫn là
làng Chợ Phủ. Vì chợ ngay cạnh Phủ và là chợ trung tâm cả một vùng.
Năm 1996, Bộ Văn
Hóa – Thông Tin tổ chức Hội thảo về làng văn hóa, Duy Tinh được đại diện cho
Thanh Hóa báo cáo, và là một trong 30 làng của cả nước được vinh danh là Làng Văn Hóa cấp Quốc gia. Là một trong
10 làng tiêu biểu các tỉnh phía Bắc, xếp thứ hai sau làng Viêm Xá, xã Hòa Long,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Ngày nay trong
quá trình đô thị hóa, bộ mặt của làng đã hoàn toàn thay đổi. So với trước năm
1945 chỉ còn con đường lớn chạy suốt từ đầu làng đến cuối làng và năm con đường
rẽ vào các xóm; nhưng tất cả đã bê tông hóa. Đêm đêm điện sáng khắp các ngả đường.
Chùa Sùng Nghiêm
Diên Thánh trước chỉ có ba gian tiền đường và ba gian chùa trong; giờ được nhà
nước cấp bằng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Được đầu tư trên chục tỷ, để
xây dựng thêm các công trình hoành tráng.
Khắp làng không
còn một mái nhà tranh, không thấy đâu nữa một hàng rào cây bao quanh nhà. Xóm
nào cũng có nhà hai ba tầng, có nhà như một biệt thự nhỏ.
Các bến sông, chợ
búa đều bị thu hẹp, không còn cảnh tấp nập ngày xưa!
Ngày xưa, nói là
xưa nhưng thực ra chỉ mới hơn 60 năm thôi; bộ mặt của làng như thế nào? Lớp người
như chúng tôi vẫn còn nhớ rõ:
Làng Duy Tinh là
huyện lỵ Hậu Lộc, nhưng số công sở đếm không đủ số ngón một bàn tay. Huyện đường
chiếm khu đất rộng phía Bắc chợ. Có hai dãy nhà gạch năm gian rộng. Dãy nhà
phía trước là công đường, nơi làm việc của cả một bộ máy chính quyền huyện.
Thời ấy, bộ máy
cai trị một huyện chỉ gồm một Tri huyện, được gọi là quan. Vào công đường, người
dân phải: "bẩm quan!". Dưới quan có đề lại, lục sự, thừa phái và đội
lệ, gọi chung là các thầy!
Quan ở trong tư thất
thuộc dãy nhà năm gian phía sau, cùng với gia đình quan. Hết giờ làm việc quan
lui vào tư thất. Còn các thầy phải tìm nhà trọ trong dân. Ngày hai buổi, nghe
tiếng trống công đường đánh thì đến làm việc.
Phía sau, chếch
về bên trái có ba gian nhà gạch, vừa là trại giam vừa là nơi làm việc của đội lệ
và các lính lệ. Trại giam là một gian, được ngăn cách với hai gian ngoài bằng một
cánh cửa gỗ và hàng chấn song gỗ, dựng suốt từ nền lên mái nhà, cách nhau độ 15
phân, thân chấn song to hơn cổ tay.
Như vậy, giữa
lính canh và người bị giam ở cạnh nhau, nhìn thấy nhau suốt ngày đêm; người bị
giam khó lòng tìm cách trốn!
Ở tường đối diện
phòng giam là một cái giá dựng 10 cây súng trường (loại súng indochinois) có cắm sẵn lưỡi lê.
Còn đề lại, lục
sự, thừa phái làm việc ở hai gian bên công đường; phần phía sau công đường là
nơi làm việc của thầy ký đạc điền (địa chính bây giờ) và các tủ đựng hồ sơ lưu
trữ của huyện.
Như vậy cả huyện
chỉ có một ông quan là Tri huyện, người có quyền lực cao nhất trong mọi công việc
quản lý hành chính, tư pháp, trật tự trị an; chịu trách nhiệm trước quan trên cấp
tỉnh là Tuần phủ (tỉnh nhỏ) hay Tổng đốc (tỉnh lớn).
Đề lại là viên
chức giúp tri huyện trong mọi việc và quản lý đội ngũ viên chức các tổng, làng
xã trong huyện: cai tổng, phó tổng, lý trưởng, phó lý. Lục sự giúp tri huyện
trong việc tư pháp, kiện tụng.Thừa phái phụ trách việc thuế má, đê điều, ruộng
đất. Đội lệ trông coi việc trật tự trị an.
Còn Phủ cũng là
một đơn vị hành chính như huyện, nhưng cấp bậc quan lại cao hơn. Làm quan phải
qua tri huyện mới thăng lên tri phủ. Sau đó mới được thăng lên cấp tỉnh là bố
chánh, án sát, tuần phủ, tổng đốc.
Làm quan không
được làm ở quê mình, phải làm ở địa phương khác theo điều động của Bộ Lại. Các
viên chức cũng không được làm việc ở quê, mà phải đi các phủ huyện khác trong tỉnh,
theo điều động của tuần phủ, tổng đốc.
Cách khu vực huyện
đường một hàng rào chông chà, là khu vực trường học. Trước năm 1919 đây là nơi ở
và làm việc của quan huấn đạo. Ở phủ là quan huấn đạo, ở huyện là quan giáo thụ
coi về việc học; cũng phải là người tỉnh khác. Ông nội tôi từng làm huấn đạo phủ
Hương Sơn Hà Tĩnh là vậy.
Được gọi là
quan, nhưng quan chỉ trông coi mỗi việc học hành, thi cử của sĩ tử trong huyện.
Có thành tích tốt mới được bổ sang ngạch hành chính, đi làm tri huyện.
Sau khi bãi bỏ
chế độ thi cử Nho học vào năm 1919, ở khu huấn đạo xây một ngôi trường ba phòng
học đúng tiêu chuẩn thời ấy. Gọi là trường Pháp - Việt. Dạy bậc học sơ học từ lớp
năm đến lớp ba. Học hết lớp ba (tương đương lớp ba tiểu học bây giờ) phải thi lấy
bằng sơ học yếu lược.
Trước năm 1945,
ai không có bằng sơ học yếu lược thì không được bổ làm lý trưởng để cầm đồng
triện một làng. Vì vậy, năm 1941 tôi đi thi lấy bằng sơ học yếu lược, chỉ là đứa
bé để chỏm chín tuổi, đã ngồi cùng phòng thi với các ông lý áo the khăn đóng,
dép Gia Định, có lính lệ giả vờ vào để đưa bài!
Cũng năm 1941,
trường Pháp - Việt xây thêm ba phòng nữa về phía Nam; để dạy ba lớp cuối tiểu học:
Lớp nhì đệ nhất, lớp nhì đệ nhị và lớp nhất. Học xong đi thi lấy bằng tiểu học.
Ngày khánh thành ngôi trường này, thượng thư bộ Học là Phạm Quỳnh ra dự. Tôi là
trò nhỏ, được xếp hàng đầu, đứng ngay trước Phạm Quỳnh, nên nhìn rõ các chữ
Nho: “學部上書- Học bộ thượng thư” chữ đỏ trên nền chiếc
bài bằng vàng thật, đeo ở khuy áo thứ hai bên phải.
Năm ấy tôi học lớp
nhì đệ nhất với thầy Lê Văn Thủy người thành phố Thanh Hóa. Lớp nhì đệ nhị do
thầy Bạch Văn Quế người Huế dạy. Anh trai tôi là Lê Song Nguyên từ Quảng Thi
chuyển về học học lớp nhất, thầy Phạm Viết Nguyên người Nam Đàn Nghệ An dạy. Thầy
Nguyên vừa dạy vừa làm Hiệu trưởng, được gọi là quan đốc Nguyên.
Năm ấy anh Lê
Song Nguyên dự thi Concours général
do Bộ Học tổ chức (như kiểu thi giỏi Văn toàn quốc bây giờ). Anh đậu giải đầu
được vua Bảo Đại gửi ra thưởng một cái đồng hồ chuông, hộp gỗ mui luyện. Loại đồng
hồ để bàn, kích thước 30x20x25 cm. Đồng hồ được đưa về tỉnh, tỉnh đưa về huyện
đặt tại công đường. Tri huyện bấy giờ là ông Bửu Hộ, định ngày sức cho văn thân
và tổng lý toàn huyện tập trung về dự đám rước đồng hồ vua ban từ công đường về
nhà. Làng tôi phải cử trai tráng mặc áo nẹp, đội nón dấu, khiêng kiệu cung đình
cùng với đội bát âm và các nghi vệ khác vào công đường rước đồng hồ. Quan huyện
cung kính bưng chiếc đồng hồ đặt vào kiệu.
Đám rước diễu
hành, nghi vệ đi trước tiếp đến kiệu. Quan huyện đi giữa, một bên là thầy Phạm
Viết Nguyên hiệu trưởng, một bên là anh Song Nguyên. Hai bên có lính cầm lọng
xanh che. Cả ba người đều mặc áo thụng nghi lễ.
Từ công đường về
đến nhà tôi chỉ hơn 200 mét, đi bình thường không đến 5 phút; nhưng vì là
"rước" nên phải đi nhẩn nha, càng chậm càng tốt, để thiên hạ chiêm
ngưỡng. Hôm ấy lại đúng phiên chợ Phủ, người họp chợ phải tránh ra cho kiệu đi.
Thành ra mất hơn nửa tiếng đồng hồ mới về đến cổng nhà. Kiệu không lọt cổng,
nên phải hạ kiệu. Quan huyện lại cung kính bưng chiếc đồng hồ từ trong kiệu ra,
trịnh trọng bưng vào đặt ngay ngắn lên cái án thư đã đặt sẵn ở giữa nhà cầu, rồi
vái năm vái. Xong, quay sang thầy tôi nói vài câu khen ngợi xã giao. Đến đây
đám rước kết thúc!
Cụ phó bảng Lê
Trọng Phan người Thọ Xuân, xuống chúc mừng và tự tay cụ viết tặng đôi câu đối:
黄庭蒙錄賞前此未文 Hoàng đinh mông lục thưởng tiền thử vị văn
Ý là:
Học trò đã gặp
vua, lớp sinh sau đáng sợ
Còn trẻ được vua
thưởng, trước nay ta chưa nghe!
Chỉ một cái đồng
hồ thưởng cho một học sinh giỏi; ngày nay xem ra chả là gì; nhưng ngày xưa đó
là vật của vua ban, phải tổ chức trao thưởng đúng nghi lễ. Hình thức thì phức tạp,
nhưng nội dung mang một ý nghĩa văn hóa sâu sắc.
Năm 1942 huyện lại
xây một ngôi nhà ngói ba gian rộng, phía trước cổng trường Pháp - Việt, gọi là Infirmerie, dân gọi là "nhà thương" (bệnh viện). Có một Infermier (y tá) do trên bổ về, trông
coi việc y tế của cả huyện, dân gọi là ông ký.
Ông ký đầu tiên
là ông ký Thân, ông vui tính; học trò chúng tôi thỉnh thoảng chạy qua khai là bị
ho, rồi cố ho vài tiếng, ông liền rót cho một chén potion calmente uống tại chỗ. Thuốc ngọt, uống vào khỏi ho liền!
(Còn nữa)
Lê Trần Cảnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét